Tín dụng dành cho bất động sản sẽ tăng từ đầu năm 2023?
Số liệu này được chính Thống đốc Ngân hàng Nhà nước - Bà Nguyễn Thị Hồng đưa ra trong báo cáo gửi Quốc hội về thực hiện Nghị quyết của Quốc hội. Theo đó, tính đến cuối tháng 9, tín dụng đạt gần 11,6 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 11% so với cuối năm 2021 - đây là mức cao nhất so với cùng kỳ nhiều năm qua, phù hợp với diễn biến phục hồi kinh tế.
Cơ cấu tín dụng tập trung trong lĩnh vực ưu tiên là sản xuất, kinh doanh, nhưng kiểm soát chặt chẽ vào lĩnh vực rủi ro. Chẳng hạn như tín dụng vào lĩnh vực nông, lâm, thủy sản tăng khoảng 7,6%; công nghiệp xây dựng khoảng 7,4%; thương mại dịch vụ tăng 11,34%. Các lĩnh vực khác như nông nghiệp, nông thôn ghi nhận mức tín dụng tăng khoảng 9,3%, xuất khẩu tăng khoảng 2,7%, công nghiệp hỗ trợ là 11,6%...
Vượt qua SCB, một ngân hàng có lãi suất tiền gửi lên tới 9,5%/năm
Mới đây, khi khách hàng gửi tiền tại ngân hàng số Cake by VPBank kỳ hạn 36 tháng, với tiền gửi tối thiểu là 300 triệu đồng thì sẽ được hưởng mức lãi suất 9,5%/năm.Lãi suất dồn bất động sản vào thế khó
Thị trường bất động sản vốn đã trầm lắng gần một năm nay, ấy vậy lãi suất ngân hàng điều chỉnh tăng lên lại một lần nữa đẩy thị trường này vào thế khó.Lãi suất tiết kiệm tăng “khủng”, người dân ồ ạt gửi tiền vào ngân hàng
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, trong 7 tháng đầu năm, số dư tiền gửi của người dân tại hệ thống ngân hàng đã tăng ròng hơn 328.500 tỷ đồng, cao hơn gấp đôi so với mức tăng trong cả năm 2021 trước đó.Tới cuối tháng 8, tín dụng lĩnh vực BĐS tăng gần 15,7% so với cuối năm ngoái, tăng thêm 3,7% so với 3 tháng trước. Như vậy, vốn tín dụng “chảy” vào BĐS chiếm hơn 20,9% tổng dư nợ của nền kinh tế, tăng 0,26% so với tháng 5.
Tín dụng chảy vào lĩnh vực BĐS tập trung chính vào mục đích vay tự sử dụng, tăng hơn 20,1%, kinh doanh bất động sản tăng lên 7,35%.
Vốn chảy vào BĐS tăng nhẹ, vốn rót vào đầu tư, kinh doanh chứng khoán giảm hơn 35%, chiếm 0,32% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng.
Tương tự, tín dụng chảy vào các dự án BOT, BT giao thông giảm xuống, tới cuối tháng 6 giảm 1,72% so với cuối năm ngoái, chiếm 0,88% tổng dư nợ tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng những biện pháp giám sát chặt tốc độ tăng trưởng dự nợ, chất lượng tín dụng đối với những lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao, đặc biệt là đầu tư, kinh doanh BĐS, chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ,... và thực hiện những giải pháp giám sát, chứng khoán và trái phiếu DN riêng lẻ… đồng thời thực hiện những giải pháp giám sát, đảm bảo an toàn trong hoạt động.
Những văn bản pháp lý về giới hạn hay tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hệ thống ngân hàng đã được cơ quan quản lý tiền tệ ban hành để giám sát chặt chẽ và có cảnh báo kịp thời về cấp tín dụng với lĩnh vực rủi ro. Theo Ngân hàng Nhà nước, việc thanh toán và kiểm tra hoạt động cấp tín dụng với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro sẽ được đưa vào kế hoạch thanh tra chuyên ngành, định kỳ theo hàng năm.
Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng khi cấp vốn cho BĐS phải tăng kiểm soát chất lượng tín dụng, giám sát, thẩm định sử dụng vốn vay… nhằm hạn chế phát sinh hạn chế, đảm bảo vốn chảy đúng mục đích.
“Các ngân hàng cần hạn chế dòng vốn tín dụng rót vào những nhóm khách hàng lớn, các dự án BĐS quy mô lớn. Thay vào đó cần đưa vốn vào các dự án nhà ở thương mại có hiệu quả cao, nhà ở xã hội, các dự án vay vốn khả thi nhằm đảm bảo tính pháp lý, thanh khoản tốt…” - Báo cáo nêu rõ.
Trong báo cáo, Thống đốc cũng chỉ ra nhiều thách thức trong điều hành chính sách tiền tệ, nhất là lãi suất, tỷ giá thời gian tới trước những áp lực về lạm phát. “Lạm phát so với cùng kỳ dự kiến vượt 4%, gây thách thức tới mục tiêu kiểm soát lạm phát ngay từ đầu năm 2023” - Theo nhận xét của Ngân hàng Nhà nước.
Theo chỉ đạo của Quốc hội và cơ quan quản lý tiền tệ, việc giảm lãi suất cho vay sẽ gặp nhiều khó khăn vì các ngân hàng trung ương lớn toàn cầu tiếp tục sẽ thu hẹp nới lỏng chính sách tiền tệ, tăng lãi suất một cách nhanh và mạnh hơn. Đồng thời, lạm phát trong và ngoài nước tăng vì giá nguyên vật liệu cũng tăng trên toàn cầu, chi phí vận chuyển tăng cùng việc gián đoạn nguồn cung và tác động trễ của chính sách tiền tệ, tài khóa nới lỏng kể từ năm nay.
Lãi suất cho vay hiện tại giảm ở mức khá thấp và đang tăng trở lại. Chủ yếu là do nhu cầu tín dụng và lãi suất tiền gửi đều tăng. Mặt bằng lãi suất tiết kiệm cũng dần tương đương mức trước dịch, trong đó có ngân hàng trả lãi lên tới 8,7% cho khách gửi tiền online.
Tỷ giá USD/VND tăng khiến lãi suất tiền đồng gặp sức ép lớn. Bắt đầu từ ngày 17/10, Ngân hàng Nhà nước nới biên độ tỷ giá giao ngay giữa VNĐ - USD từ 3% lên 5%. Giá USD với biên độ mới tại các ngân hàng thương mại sẽ điều chỉnh tăng hoặc giảm tối đa là 5% so với tỷ giá trung tâm mà NHNN công bố hàng ngày. Có nghĩa, tỷ giá tại các ngân hàng có thêm dư địa 2% để điều chỉnh tăng - giảm so với trước đây.
Thêm một thách thức khác là áp lực vốn tín dụng ngân hàng tăng cao trước bối cảnh nền kinh tế vốn để phục hồi, tuy nhiên các nguồn vốn khác có những diễn biến không thuận lợi. Đơn cử như, thị trường vốn phát sinh nhiều bất cập, chưa phát triển đúng với vai trò cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, Vốn FDI so với cùng kỳ năm ngoái và kiều hối sụt giảm.
Từ những đánh giá của một số tổ chức quốc tế IMF, WB hay các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc gia, có thể thấy các tổ chức trên đều cảnh báo về tỷ lệ trên. Đơn cử như WB cho rằng, Việt Nam là một quốc gia có tỷ lệ tín dụng/ GDP đang cao nhất thế giới.
Còn với cảnh báo của Moody’s, tỷ lệ tín dụng trong nước/GDP và tỷ lệ tổng tài sản ngân hàng trong nước/GDP lần lượt tăng 124% và 17%.
Thêm một thách thức khác là các khoản giải ngân của ngân sách chậm so với thực tế, khiến ngân quỹ Nhà nước tồn đọng, đang ở mức cao và ngày càng tích tụ chưa được sử dụng, làm giảm lượng tiền của nền kinh tế.