Gam màu trầm trong bức tranh ngân hàng năm 2022
BÀI LIÊN QUAN
Trung Quốc dùng ngân hàng chính sách để kích thích nền kinh tế như thế nào?Thay vì đầu tư, người dân Trung Quốc thi nhau gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàngĐời sống nâng cao, dân Việt đang để bao nhiêu tiền trong tài khoản ngân hàng?Trong báo cáo vừa được công bố của Vietnam Report, nhiều chuyên gia tham gia khảo sát đã có những nhận định về ngành ngân hàng trong 6 tháng cuối năm, “bóng đen” của đại dịch COVID-19 đã dần lùi đi và đang từng bước nhường chỗ cho bức tranh tươi sáng hơn.
Cụ thể, 63,6% chuyên gia và ngân hàng dự báo tăng trưởng của ngành sẽ cao hơn cùng kỳ năm ngoái, với mức tăng nhẹ 58,5%. Khoảng 9,1% còn lại thì tỏ ra thận trọng với triển vọng của ngành ngân hàng. Đặc biệt, con số này được cho là rất tích cực nếu so sánh với thời điểm đại dịch COVID-19 bùng phát và lan rộng, phủ bóng bên lên hầu khắp các ngành khiến cho 76,9% chuyên gia và ngân hàng lo ngại về suy giảm tăng trưởng.
Động lực cho dự báo mang tính tích cực này chủ yếu đến từ việc tăng trưởng tín dụng phục hồi mạnh mẽ, vay tiêu dùng ở Việt Nam vẫn còn khiêm tốn hơn so với các nước trong khu vực. Ngoài ra, dòng tiền gửi ngân hàng tăng trở lại, thu nhập ngoài lãi tăng trưởng tốt, chi phí hoạt động được cải thiện nhờ chuyển đổi số.
Tuy nhiên, các chuyên gia cũng vẫn đưa ra hàng loạt các “mảng xám” đang dần lộ diện mà ngành ngân hàng cần lưu ý. Đầu tiên là những rủi ro vỡ nợ chéo từ trái phiếu bất động sản. Trong bối cảnh nguồn vốn tín dụng bị siết chặt từ cuối năm 2019, các công ty bất động sản đã tiến hành phát hành trái phiếu và coi đó là một trong những phương thức hiệu quả giúp doanh nghiệp huy động vốn để phát triển các dự án.
Theo số liệu từ Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam (VBMA), tổng khối lượng trái phiếu phát hành trong quý I/2022 đã tăng khoảng 18.98% so với cùng kỳ năm 2021, đạt 56.674 tỷ đồng, trong đó, bất động sản được xem là nhóm dẫn đầu với tổng giá trị 28.581 tỷ đồng.
Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, trái phiếu bất động sản lại đang gặp phải nhiều biến động với hàng loạt các dấu hiệu vi phạm pháp luật liên quan đến phát hành trái phiếu và huy động vốn từ các nhà đầu tư.
Fiin Research nhận định áp lực trả nợ đối với trái phiếu đáo hạn trọng 3 năm tới của các doanh nghiệp bất động sản rất lớn. Và điều này có thể gây ra nhiều rủi ro thanh khoản của các đại lý phân phối có cam kết mua lại trái phiếu, đặc biệt là ngân hàng. Bởi một nửa số trái phiếu doanh nghiệp mà các ngân hàng đang nắm giữ là trái phiếu bất động sản.
Do đó, các ngân hàng rất có thể sẽ phải đối mặt với rủi ro vỡ nợ chéo do một lượng lớn trái phiếu bất động sản của các doanh nghiệp chưa niêm yết nằm trong nhóm nợ nghi ngờ.
Thứ hai là sự gia tăng của nợ xấu gây ra những tiềm ẩn rủi ro an toàn hệ thống. Thống kê cho thấy nợ xấu có xu hướng tăng khá mạnh. Đại dịch ảnh hưởng lên bảng cân đối kế toán của các ngân hàng được dự báo sẽ tiếp tục kéo dài khi doanh nghiệp chưa thể phục hồi và những khoản nợ sau khi được tạo điều kiện cơ cấu lại đang xếp ở nợ nhóm 1, nhóm 2. Nhưng hiện tại vẫn không thể cải thiện được sẽ buộc hệ thống ngân hàng sẽ phải chính thức ghi nhận là nợ xấu, đặc biệt là sau khi Thông tư 14 hết hiệu lực vào ngày 30/6/2022.
Cũng bởi triển vọng về sự gia tăng nợ xấu vào năm 2022, nên từ cuối năm 2021, phần lớn các ngân hàng đã tăng tỷ lệ dự phòng rủi ro để giúp cải thiện chất lượng tài sản cũng như “dự phòng” lợi nhuận cho năm nay.
Kết quả khảo sát của Vietnam Report cũng chỉ ra rằng xu hướng dự phòng này vẫn sẽ tiếp tục được ngân hàng duy trì khi có tới 45,5% số ngân hàng dự kiến tiếp tục tăng trích lập dự phòng rủi ro, 36,4% số ngân hàng duy trì mức trích lập dự phòng rủi ro như năm trước và chỉ có 18,2% giảm trích lập dự phòng rủi ro.
Dù vậy, tốc độ tăng trưởng trích lập dự phòng được đánh giá là chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng nợ xấu khiến tỷ lệ trích lập dự phòng bao nợ xấu trung bình giảm nhẹ từ 118% hồi đầu năm xuống còn 112% khi kết thúc quý 1/2022. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu công bố có thể sẽ tăng lên trong nửa cuối năm 2022, sau khi Thông tư 14 sẽ hết hiệu lực.
Chính vì vậy, việc tăng nguồn lực dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu của các ngân hàng lại càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Thứ 3 chính là bộ đệm an toàn vẫn còn mỏng. Trong bối cảnh phát triển và hội nhập ngày một sâu rộng, nhóm ngân hàng cần thực hiện các chuẩn mực quốc tế cao hơn như Basel 2, Basel 3,... nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro và tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực.
Một trong số những chỉ tiêu quan trọng về quản trị rủi ro chính là tỷ lên an toàn vốn (CAR). Theo Fiin Research, tỷ lệ CAR của các ngân hàng Việt Nam chỉ ở mức 11,3% trong năm 2021, khá thấp so với các nước trong khu vực, và có dấu hiệu suy giảm trong quý 1/2022, một số ngân hàng thương mại nhà nước lớn hầu như không đáp ứng được yêu cầu về an toàn vốn của Basel 2.
Tỷ lệ CAR giảm một phần là do các tổ chức tín dụng áp dụng Thông tư 41/2016/TT-NHNN tiệm cận Basel 2, với yêu cầu tính tài sản có rủi ro chặt chẽ hơn, đồng thời các khoản cho vay chứng khoán, bất động sản… cũng bị áp dụng hệ số rủi ro tín dụng cao hơn.
Dù vốn điều lệ của các ngân hàng tăng khá tốt trong năm 2021 thông qua hình thức phát hành cổ phiếu để trả cổ tức, nhưng theo quan sát, tốc độ tăng trưởng đã có dấu hiệu chậm lại. Trong môi trường rủi ro tín dụng và kinh tế có nhiều biến động như hiện nay, áp lực tăng vốn đè nặng nên các ngân hàng ngày một tăng, trở thành một trong những thách thức lớn nhất đối với tăng trưởng trong năm nay của 36,4% số ngân hàng, tăng 8,6% so với năm ngoái (theo khảo sát của Vietnam Report).
Theo đó, hơn 54,6% số ngân hàng cho biết tăng vốn điều lệ là nhiệm vụ trọng tâm của năm 2022, tăng đáng kể so với mức 44,4% của năm trước.