Ba điều bí ẩn có thể làm đảo lộn mọi dự báo về lạm phát tại Mỹ
BÀI LIÊN QUAN
Thị trường tiền số lao dốc chưa thể khiến kinh tế Mỹ “nghẹt thở”, vay nợ chính là điểm mấu chốtDự kiến thu phí cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận từ ngày 1/7, mức thu cao nhất 432.000 đồng/lượtHãng mỹ phẩm đình đám một thời rơi vào hoàn cảnh khó khăn, buộc phải đệ đơn phá sảnTheo Nhịp sống kinh tế, lúc này lạm phát hiện đang là vấn đề đầu tiên, chiếm trọn tâm trí của nhiều nhà đầu tư. Lạm phát sẽ còn cao tới đâu và kéo dài cho tới bao giờ? Và liệu Ngân hàng Trung ương Mỹ có thể khống chế được lạm phát mà không gây ra một cuộc suy thoái lớn nào hay không?
Đã có vô cùng nhiều sự so sánh giữa những thời kỳ hiện nay và giai đoạn lạm phát đình trệ thập niên 1970. Nhưng ngày nay, có rất nhiều yếu tố đặc trưng hơn, khác xa với quá khứ và chúng khiến cho những dự đoán quá trình thắt chặt chính sách tiền tệ trở nên càng khó khăn hơn. Dưới đây là những "lá bài bí ẩn" mà nhiều nhà đầu tư cần chú ý.
Thứ nhất là ảnh hưởng tiềm tàng của xu hướng tài chính hoá nền kinh tế lên những nỗ lực kiểm soát lạm phát của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Nhiều thập kỷ lãi suất thấp cùng với nhiều cuộc nới lỏng định lượng lớn sau khủng hoảng tài chính năm 2008 đã làm tăng thêm cả giá tài sản và mức nợ công tại Mỹ.
Theo Financial Times, mức độ chịu rủi ro của những nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán ngày nay tăng cao hơn nhiều so với khoảng chục năm về trước. Người Mỹ đã dần quen hơn với một nền tảng kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, giúp nhiều của cải của họ ngày càng tăng cao hơn.
Vậy thì điều gì sẽ xảy tới khi giá tài sản cắm đầu đi xuống khi lãi suất lại ngóc đầu đi lên, rất có thể điều này sẽ tạo ra áp lực lớn lên ngân sách của chính phủ Mỹ.
Luke Gromen, nhà phân tích của công ty nghiên cứu vĩ mô Forest for the Trees đã cho rằng mối tương quan giữa doanh thu thuế của chính phủ với giá tài sản trong hai mươi năm qua đã trở nên rõ ràng hơn nhiều. Thực tế, cả hai đều tăng và giảm gần như đồng bộ với nhau kể từ năm 2001.
Nếu thị trường nằm bẹp tại đáy thì doanh thu thuế cũng có thể đi xuống. Thâm hụt liên bang sẽ tăng tương ứng khiến chính phủ Mỹ phải vay nhiều hơn trong thời buổi lãi suất đi lên. Điều này có thể tạo ra nhiều rắc rối đối với cán cân thanh toán quốc tế và buộc Fed phải quay ngược 180 độ và kéo lãi suất xuống thấp.
Do nhiều nhà đầu ngoại không còn sẵn sàng mua nợ của chính phủ Mỹ như trước nữa, rủi ro này đang được chú ý. Sự phụ thuộc của Mỹ vào tiền rẻ và chu kỳ kinh doanh được kéo căng trong nhiều thập kỷ có thể tạo ra những tác động ngược và đáng ngại lên kinh tế vĩ mô.
Điều thứ hai đó chính là trong chu kỳ lạm phát là thị trường nhà ở, mặc dù kích thích kinh tế thời đại dịch đã tạo ra sự bùng nổ của thị trường nhà đất tại nhiều nước nhưng lần này khác biệt với những thời kỳ trước khủng hoảng năm 2008.
Theo những báo cáo gần đây của TS Lombard cho biết rằng lãi suất thấp chỉ tạo ra được khoảng 1/3 mức tăng nhu cầu bất động sản. Ngoài ra, số đơn đăng ký vay thế chấp trong thời đại dịch không nhảy vọt giống như ngay trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính năm 2008.
Nợ vay thế chấp trong nhiều năm qua có chất lượng cao hơn rất nhiều và phần lớn đi kèm cùng lãi suất cố định. Điều này cho thấy rằng dù lãi suất cố tăng lên thì cũng sẽ không xảy ra làn sóng thanh lý nhà trả nợ khổng lồ như trước đây.
Còn những người mua nhà lần đầu thì sao? Trong một nghiên cứu của Fed chi nhánh New York đã đưa ra giải thiết rằng lãi suất vay thế chấp tăng 100 điểm cơ bản thì doanh số bán bất động sản sẽ giảm khoảng 10%. Nhưng đó là trong thị trường nhà đất "bình thường" chứ không phải thị trường hậu Covid-19.
Được biết, xu hướng làm việc tại nhà đã tạo ra sự thay đổi địa lý vô cùng lớn trên thị trường nhà đất. Một bài nghiên cứu học thuật mới đây đã tìm ra mối liên quan giữa đà tăng giá của bất động sản và nhiều khu vực mà người lao động Mỹ có nhiều khả năng làm việc tại nhà.
Vậy nên kết luận là tại hầu như những thị trường bị đầu cơ nhiều nhất, lạm phát nhà ở có thể giảm và giá nhà sẽ được điều chỉnh một khi lãi suất tăng cao. Nhưng ở một số khu vực khác, giá bất động sản vẫn có thể sẽ đứng im. Như vậy thì thị trường nhà đất của Mỹ trên cấp độ toàn quốc có thể sẽ ổn định lâu dài hơn suy nghĩ của nhiều người.
Cuối cùng đó là câu hỏi về thị trường lao động tại Mỹ. Mặc dù đã có khá nhiều nhận định rằng thị trường lao động đang nóng lên và người lao động yêu cầu nâng mức lương lên để bù đắp lại cho những sự tăng mạnh của giá cả, Financial Times cho biết những tác động của lương tới lạm phát đã bị thổi phồng lên nhiều.
Mặc dù chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5 đã tăng lên mức 8,6% so với cùng kỳ năm ngoái, lương chỉ đi lên mức 6,1% theo công cụ theo dõi của Fed chi nhánh Atlanta. Được biết, con số này cao hơn nhiều so với mục tiêu 2%, nhưng vẫn không theo kịp đà tăng của lạm phát.
Chính lạm phát không hề thúc đẩy bởi yêu cầu nâng mức lương của người lao động hoặc kích thích trong đại dịch mà chính bởi chính sách dài hạn của Fed và tình hình chính trị - tức là chiến sự tại Ukraine. Có lẽ rằng, kết thúc cho cuộc chiến tại Ukraine mới chính là điều có sức ảnh hưởng mạnh nhất.