Thị trường bất động sản đóng băng là một trong những lực cản xử lý nợ xấu
BÀI LIÊN QUAN
Lo trái phiếu và bất động sản tiếp tục tác động lên nợ xấuPGS.TS Phạm Thế Anh: Lãi suất cao là cách nhanh nhất khiến doanh nghiệp suy yếu và kiến tạo nợ xấuMối lo nợ xấu tăng khi lãi suất tăng liên tục“Trăm dâu đổ đầu” nợ xấu
Theo ông Nguyễn Quốc Hùng, nợ xấu là vấn đề chỉ riêng ngành ngân hàng mà cả xã hội qua tâm. Nợ xấu được biết đến từ khi chúng ta thành lập Công ty quản lý nợ và quản lý tài sản VAMC. Và khi nợ xấu phát triển tới mức Chính phủ phải ban hành Nghị quyết số 42/2017/QH14 (Nghị quyết 42 ngày 15/8/2017) mới xử lý được nợ xấu. Điều đó cho thấy nợ xấu trở thành vấn đề xã hội khiến cả hệ thống chính trị, các tổ chức, doanh nghiệp phải vào cuộc xử lý.
Ông Hùng thông tin, bắt đầu tư năm 2017, khi Nghị quyết 42 bắt đầu có hiệu lực thì nợ xấu đã có sự tăng lên, khi năm 2017 nợ xấu ở mức dưới 2% nhưng đến nay đã tăng lên 2,91% và dự báo trong thời gian tới sẽ không dừng lại ở mức này, còn tăng hơn nữa.
Toàn cảnh ngành ngân hàng năm 2022: Động lực tăng trưởng lợi nhuận chính là nhóm quốc doanh, quý 4 nợ xấu tăng chậm lại
Công ty cổ phần WiGroup cho biết, trong quý IV lợi nhuận ngành ngân hàng ghi nhận tăng trưởng 17,9% so với cùng kỳ, trong đó, động lực chính đến từ các Ngân hàng Thương mại Nhà nước. Song song, đà tăng của nợ xấu đã chậm lại nhưng số lượng các ngân hàng dễ bị tổn thương bởi nhóm này đang tăng lên.Cần luật hóa trong xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu là bất động sản?
Việc xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của các tổ chức tín dụng mà tài sản “đã có quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” theo quy định của khoản 1 Điều 10 Nghị quyết 42/2017/QH14 trong thời gian qua rất suôn sẻ, đã chứng minh tính hiệu quả và tính ổn định của cơ chế, chính sách “thí điểm” này, nên rất cần thiết được “luật hóa” để áp dụng chung để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, công bằng.Hầu hết các ngân hàng ghi nhận nợ xấu tăng trong quý đầu năm
Trong quý 1/2023, một số ngân hàng ghi nhận nợ xấu tăng nhanh như: TPBank (tăng 84%), MB (tăng 68%), OCB (tăng 51%) và BIDV (tăng 40%);...chủ yếu là do nợ nhóm 3 tăng cao.Từ khi Nghị quyết 42 có hiệu lực đến cuối tháng 1/2023, toàn hệ thống đã xử lý được 416 nghìn tỷ đồng, trong đó xử lý trực tiếp hơn 200 nghìn tỷ chiếm hơn 50%. Bán thông qua VAMC chiếm khoảng hơn 19% là 82,1 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán là 122,1 nghìn tỷ đồng (chiếm 29,3% tổng nợ xấu đã xử lý).
"Vấn đề là tại sao chỉ khi VAMC ra đời mới xử lý nợ xấu, tại sao trong các quy định thực hiện theo Luật dân sự chưa xử lý được, liệu văn bản quy phạm pháp luật đã phù hợp chưa, có đảm bảo được quyền và trách nhiệm của người cho vay cũng như trách nhiệm của người vay khi vay mà không trả như thế nào, tại sao quan hệ đó là dân sự khi người vay không trả được nợ,… Việc thu hồi nợ đang vướng ở đâu, chúng ta phải xử lý như thế nào?" Ông Hùng đặt câu hỏi.
Từ đó ông Hùng cho biết, ở góc độ người cho vay, khi cho vay, khách hàng phải có cam kết và phương án trả nợ thì ngân hàng mới cho vay tuy nhiên khi thu hồi nợ lại gặp nhiều khó khăn.
Lý giải về điều này, thực trạng nợ xấu của các TCTD hiện nay rất đáng lo ngại, trong bối cảnh doanh nghiệp rất khó khăn, kinh tế toàn cầu có biểu hiện suy thoái. Cụ thể, những tháng đầu năm 2023, kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn do tác động của kinh tế toàn cầu.
Những tháng đầu năm 2023, kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn do tác động của kinh tế toàn cầu. Trước bối cảnh đó, các ngân hàng cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình hoạt động.
Bên cạnh đó, Tổng thư kí VNBA cho rằng, mặt bằng lãi suất ngân hàng đã hạ nhiệt đáng kể sau quyết định hạ lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước, tuy nhiên mức lãi suất huy động và cho vay hiện nay vẫn ở mức cao do thực tế tốc độ huy động vốn vẫn tăng trưởng thấp hơn tín dụng. Bên cạnh đó, các khoản huy động vốn của ngân hàng chủ yếu là kỳ hạn ngắn trong khi các khoản cho vay dài hạn lại chưa thu hồi được trong bối cảnh khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm, các khoản huy động cũ lãi suất cao chưa đáo hạn,… nên các ngân hàng vẫn chưa có cơ sở để giảm mạnh lãi suất cho vay.
Cũng theo ông Hùng, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn nên khả năng hấp thụ vốn thấp, dẫn đến tín dụng tăng trưởng chậm lại. Đến ngày 20/4/2023, tăng trưởng tín dụng đạt trên 12,23 triệu tỷ đồng, tăng 2,57% so với cuối năm 2022, nhưng thấp hơn nhiều so với năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 6,46%).
Lý giải về lý do chất lượng tài sản suy giảm, vấn đề kiểm soát nợ xấu của NHTM gặp nhiều khó khăn ông Hùng cho rằng xuất phát từ các nguyên nhân: Hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay tiếp tục gặp khó khăn, giảm nguồn thu và khả năng trả nợ, nguy cơ phát sinh nợ xấu; Việc bán tài sản bảo đảm, đặc biệt là các khoản nợ lớn cần tổ chức bán nợ theo giá thị trường khó thực hiện trong điều kiện thị trường bất động sản đóng băng; Các DNVVN đã từng bước phục hồi sản xuất, kinh doanh, nhưng đến nay, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa đủ khả năng trả nợ các khoản nợ đã được cơ cấu lại và khoản nợ đến hạn gây ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, trong khi việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng Covid-19 đã hết hiệu lực…
Mặc dù tỷ lệ nợ xấu nội bảng được kiểm soát ở mức dưới 3% tuy nhiên theo ông Hùng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất là một số khoản nợ về nguyên tắc đã trở thành nợ xấu song do được cơ cấu nợ giữ nguyên nhóm nợ, đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp với mục đích cơ cấu lại nợ …rồi các khoản phải thu khó đòi, lãi dự thu phải thoái... "Thực tế, trong hệ thống, nhiều ngân hàng công bố kết quả kinh doanh năm 2022 và quý I/2023 cho thấy nợ xấu gia tăng mạnh so với trước, nhiều ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng trên 2%, một số ngân hàng nợ xấu tăng đột biến 4%. Chất lượng tài sản của các NHTM có sự phân hóa mạnh", ông Hùng thông tin.
Ngoài ra, có một thực tế là việc xử lý tài sản bảo đảm, thu hồi nợ trên thực tế gặp nhiều vướng mắc. Theo ông Hùng nguyên nhân là từ phía khách hàng có nợ xấu thiếu hợp tác, cá biệt có khách hàng cố tình không trả nợ không chịu bàn giao tài sản bảo đảm để xử lý vì vậy. Các ngân hàng buộc phải xử lý nợ thông qua biện pháp tố tụng, dẫn đến việc thu hồi nợ mất nhiều thời gian để xử lý; Trong quá trình thi hành án, các đương sự cố tình tạo ra tranh chấp bên thứ ba, sau đó khởi kiện ra Tòa án nhằm kéo dài việc kê biên, xử lý tài sản bảo đảm;
"Một số khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là các dự án đang dở dang có giá trị lớn, chưa hoàn thiện pháp lý. Khó xử lý", ông Hùng nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, cũng theo ông Hùng, công tác phối hợp với chính quyền các cấp và các cơ quan liên quan còn nhiều khó khăn, trong việc tiếp cận thông tin về tình trạng TSĐB; đăng ký thay đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở, thi hành án, việc giới hạn phạm vi lựa chọn tổ chức thẩm định giá...
"Việc mua bán nợ xấu của TCTD cho các tổ chức, cá nhân chưa phát sinh nhiều do bên mua nợ còn e ngại thủ tục xử lý nợ trên thực tế gặp nhiều khó khăn", ông Hùng nêu thực tế.
Bên cạnh đó, theo Tổng thư kí VNBA, hiện hành lang pháp lý cho hoạt động xử lý nợ còn chưa đồng bộ, thống nhất. "Nghị quyết 42, đã hỗ trợ tích cực, tạo cơ chế hiệu quả, đồng bộ trong xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa bảng cân đối của các TCTD. Tuy nhiên việc triển khai trên thực tế còn rất nhiều vướng mắc do bất cập, xung đột pháp lý giữa các văn bản quy phạm pháp luật ngành ngân hàng với các văn bản quy phạm pháp luật khác và xuất phát từ quá trình thực thi, từ các quy định tại các luật hiện hành, một số quy định tại Nghị quyết 42 không áp dụng được trên thực tế, cần phải luật hóa mới xử lý được", ông Hùng nêu quan điểm.
Về việc thu giữ tài sản bảo đảm (TSBĐ), ông Hùng cho biết hiện các TCTD gặp nhiều khó khăn do chủ tài sản chống đối vac không hợp tác nên phải chuyển sang tòa án các cấp xử lý.
Việc áp dụng thủ tục rút gọn đến nay chưa có TCTD nào được áp dụng trong giải quyết tranh chấp theo Nghị quyết 42. Do khách hàng luôn tạo tranh chấp để không thể xử rút gọn được mà chuyển sang theo quy định pháp luật tố tụng bình thường.
Về ưu tiên thanh toán để thu hồi nợ xấu, ông Hùng thông tin, số tiền thu được từ việc xử lý TSBĐ sau khi trừ chi phí bảo quản, thu giữ và chi phí xử lý TSBĐ chưa được ưu tiên thanh toán để thu hồi nợ xấu của các TCTD theo như quy định tại Điều 12 Nghị quyết 42. Dẫn đến cơ chế ưu tiên thu hồi nợ xấu của các TCTD từ số tiền xử lý TSBĐ theo Nghị quyết 42 không được thực thi trên thực tế do sự thiếu đồng bộ, chưa nhất quán giữa quy định tại Nghị quyết 42 với quy định của pháp luật về thuế và pháp luật về thi hành án dân sự.
"Việc xử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản khi TCTD đưa tài sản bảo đảm là dự án bất động sản ra bán đấu giá và xác định được người trúng đấu giá, nhưng lại không thực hiện được thủ tục đăng ký cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho người nhận chuyển nhượng", ông Hùng cho biết.
Ngoài những khó khăn trên, ông Hùng cũng nêu vẫn còn khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định pháp luật khác. Đơn cử về tiêu chuẩn thẩm định giá khoản nợ, hiện Bộ Tài chính mới chỉ ban hành các tiêu chuẩn thẩm định giá tài sản, chưa có quy định cụ thể về tiêu chuẩn thẩm định giá khoản nợ làm cơ sở cho các Tổ chức thẩm định giá thực hiện, dẫn tới công tác định giá khoản nợ còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Trong khi, giá trị thẩm định giá là căn cứ quan trọng để xác định giá mua bán khoản nợ xấu theo giá trị thị trường của VAMC và TCTD.
Bên cạnh đó là các vướng mắc liên quan đến hoạt động mua bán nợ: (i) khung pháp lý quản lý thị trường mua bán nợ chưa hoàn thiện; (ii) thiếu các quy định liên quan đến chứng khoán hóa các khoản nợ xấu; (iii) Chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể về cách thức xác định giá bán nợ; (iv) Việc bán nợ dưới giá trị ghi sổ: Việc bán nợ dưới giá trị ghi sổ của khoản nợ/dưới dư nợ gốc của các TCTD gặp phải những đánh giá chưa thực sự tích cực từ phía các cơ quan thanh tra, kiểm toán; (v) Chưa có cơ chế ràng buộc sự phối hợp của bên nợ: Ngay cả khi việc mua bán khoản nợ đã diễn ra thành công, rủi ro đối với bên mua nợ vẫn lớn khi bên nợ không hợp tác. Khó khăn trong việc nhận gán nợ TSBĐ là bất động sản, xử lý TSBĐ là chứng khoán trong giao dịch cầm cố với ngân hàng.
Cần giải pháp tổng thể
Chia sẻ về việc xử lý tài sản bảo đảm hiệu quả, ông Hùng đề xuất Quốc hội trước khi thông qua các dự thảo Luật lắng nghe ý kiến từ các cử tri bộ ngành các tổ chức chính trị xã hội ngành nghề và chính các doanh nghiệp, rà soát các loạt liẻn quan để ban hành luật sửa đổi phù hợp với thực tiễn: Luật các TCTD (sửa đổi), theo đó tăng tính tự chủ cho các TCTD, phù hợp hơn với chuẩn mực, thông lệ quốc tế và thực tiễn hoạt động hiện nay của các TCTD; Luật hóa các quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14 nhằm tạo hành lang pháp lý và nâng cao tính hiệu quả trong công tác xử lý nợ xấu; và các Luật liên quan mật thiệt đến hoạt động ngân hàng, cụ thể: Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Nhà ở (sửa đổi), Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi), Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) nhằm tạo cơ chế pháp lý thống nhất, đồng bộ, giúp các TCTD cho vay an toàn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, phát triển sản xuất, kinh doanh.
Đối với Tòa án nhân dân Tối cao, ông Hùng cho rằng cần có văn bản hướng dẫn các Tòa án cấp dưới trong việc xử lý các vướng mắc tranh chấp liên quan đến việc chủ TSBĐ tạo ra các tranh chấp giả tạo nhằm kéo dài việc xử lý TSBĐ của TCTD. Đối với các trường hợp cố tình chây ì, lẩn trốn, không xuất hiện, không hợp tác với cơ quan chức năng nhằm mục đích để kéo dài thời gian xử lý nợ, trốn tránh nghĩa vụ, coi thường sự nghiêm minh của luật pháp, cần tạo thành án lệ về việc xét xử vắng mặt các đối tượng này, hoặc áp dụng các biện pháp rút gọn tại tòa để rút ngắn thời gian khởi kiện, nhanh chóng xử lý có kết quả thu hồi của khoản nợ.
Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Công an sớm ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết về việc hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự.
Về phía Chính phủ, ông Hùng đề xuất Chính phủ cho phép các NHTM Nhà nước được tăng vốn điều lệ các năm tới thông qua hình thức chi trả cổ tức bằng cổ phiếu từ nguồn lợi nhuận để lại sau trích lập các quỹ giai đoạn 2022-2023 nhằm gia tăng năng lực tài chính, dự phòng rủi ro trong bối cảnh nợ xấu tăng cao thời gian tới. "Chính phủ cũng cần chỉ đạo các Bộ, Ngành liên quan tiếp tục rà soát lại các quy định liên quan đến ngành nghề, đối tượng được hưởng, các điều kiện vay vốn… tại Nghị định 31/2022/NĐ-CP và Thông tư 03/2022/TT-NHNN để có các điều chỉnh phù hợp với thực tiễn, từ đó tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc triển khai thực hiện", ông Hùng kiến nghị đồng thời cho rằng Chính phủ cũng cần thiết giao Bộ Tài chính phối hợp Bộ ngành liên quan xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động chứng khoán hóa các khoản nợ, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các giao dịch trên thị trường chứng khoán và chuyển đổi các khoản nợ xấu thành chứng khoán để giao dịch công khai, minh bạch; Ban hành hướng dẫn về định giá Khoản nợ xấu thông qua Tiêu chuẩn Thẩm định giá Việt Nam theo quy định của Luật Giá. Hay Bộ Tư pháp chỉ đạo Tổng cục thi hành án rà soát những bản án thi hành còn tồn đọng, liên quan đến xử lý TSBĐ thu hồi nợ xấu.
Về phía Ngân hàng Nhà nước, ông Hùng nhấn mạnh NHNN cần sớm xây dựng khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động ngân hàng số, xác thực khách hàng điện tử - eKYC, cho vay theo phương thức điện tử, theo đó việc phê duyệt tín dụng thông qua các hệ thống phần mềm, số hóa, dưới các hình thức giao dịch điện tử, phù hợp với xu thế phát triển hiện nay, tạo điều kiện cho các TCTD trong quá trình hoạt động và cho khách hàng vay vốn hoạt động sản xuất kinh doanh.
"Cần nghiên cứu kỹ Luật về ngân hàng của các nước trong khu vực và trên thế giới để các quy định tại Luật các TCTD (sửa đổi) phù hợp với đặc thù Việt Nam nhưng cũng phải tiệm cận và phù hợp thông lệ quốc tế. Đồng thời rà soát một số dự thảo Luật liên quan đến hoạt động ngân hàng đang sửa đổi hiện nay để tránh sự chồng chéo, không phù hợp với Luật các TCTD (sửa đổi). Cần lưu ý những nội dung dự thảo Luật giao dịch điện tử để đưa vào Luật các TCTD nhằm thực hiện tốt chuyển đổi số, cho vay trên nền tảng công nghệ, thầm định và quyết định cho vay trên dữ liệu lớn ,đồng thời trên cơd sở thực tiễn vướng mắc nghị quyết 42 bổ xung một số qui định về xử lý nợ xấu vào luật Tổ chức tín dụng (bổ sung)", ông Hùng nhấn mạnh.