Nhu cầu trong nước và nước ngoài đều giảm, ngành sản xuất Việt Nam khó chồng khó
BÀI LIÊN QUAN
Năm 2022, Việt Nam sản xuất được hơn 3,3 triệu chiếc xe máyToàn cảnh bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2022: Ghi nhận có những mảng màu sáng - tốiXuất khẩu rau quả và thủy sản Việt Nam tới EU vẫn còn khiêm tốnTheo VnEconomy, S&P Global sáng ngày 3/1/2023 đã công bố báo cáo về chỉ số nhà quản trị mua hàng PMI ngành sản xuất Việt Nam trong tháng cuối của năm 2022.
Ba điểm nhấn nổi bật trong số đó bao gồm: Các công ty giảm việc làm và hoạt động mua hàng, sản lượng số lượng đơn đặt hàng mới sụt giảm đáng kể hơn, giá cả đầu ra giảm ở tháng thứ 2 liên tiếp.
Sự sụt giảm mạnh của lượng đơn đặt hàng mới
Báo cáo chỉ ra rằng ngành sản xuất Việt Nam sụt giảm mạnh hơn trong những tháng cuối của năm 2022 khi nhu cầu cả ở nước ngoài và trong nước đều sụt giảm. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp đã giảm việc làm và hoạt động mua hàng, trong khi đó, niềm tin kinh doanh vẫn duy trì ở mức thấp.
Việt Nam tiếp tục là bến đỗ của dòng vốn FDI với gần 27,72 tỷ USD vốn đầu tư
Trong năm 2022, Việt Nam tiếp tục là điểm đến của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mặc dù có giảm so với năm 2021 do khó khăn chung của nền kinh tế thế giới, các quốc gia phát triển có xu hướng giảm đầu tư ra nước ngoài.Bất động sản Việt Nam đang sáng ngang với Singapore, Nhật Bản
Không riêng gì bất động sản Việt Nam rơi vào khó khăn mà một số thị trường địa ốc tại châu Á - Thái Bình Dương cũng rơi vào tình cảnh “xám xịt”. Tuy nhiên, với những khó khăn này, Việt Nam vẫn lọt top 3 quốc gia có triển vọng tốt nhất trong khu vực.BĐS công nghiệp Việt Nam khởi sắc: Phân khúc căn hộ dịch vụ được dịp hưởng lợi
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) “chảy” vào thị trường công nghiệp Việt Nam thời gian qua đã giúp nhiều địa phương đẩy mạnh các khu công nghiệp chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế kéo theo lượng lớn các chuyên gia, doanh nhân nước ngoài lưu trú tại nước ta. Điều này đã giúp phân khúc căn hộ dịch vụ phục vụ nhóm đối tượng này được thúc đẩy.Có một số dấu hiệu chỉ ra rằng sức ép tăng chi phí đang quay trở lại, tuy nhiên mức tăng giá đầu vào lần này vẫn ở dưới những mức từng được ghi nhận trong năm, qua đó các công ty có thể hạ giá cho khách hàng để thu hút được các đơn đặt hàng mới hơn.
Trong tháng 12, chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành Sản xuất Việt Nam đã giảm xuống mức 46,4 điểm, từ con số 47,4 điểm của tháng trước đó. Điều này chỉ ra rằng đây là lần thứ 2 liên tiếp chỉ số PMI ở dưới ngưỡng trung tính 50 điểm, cho thấy các điều kiện kinh doanh ngành sản xuất tiếp tục suy giảm. Kể từ đợt suy thoái liên quan đến đại dịch được ghi nhận vào quý 3/2021, mức giảm kỳ này là đáng kể nhất.
Trong tháng 12, số lượng đơn đặt hàng mới giảm mạnh và đây cũng lần giảm thứ 2 theo tháng và mức giảm cao hơn so với tháng 11. Đó là vì tình hình nhu cầu nói chung là yếu, và tình trạng yếu kém được đề cập đến ở một số thị trường xuất khẩu trọng điểm. Những thị trường này bao gồm Mỹ, EU và Trung Quốc. Số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới sụt giảm tháng thứ 2 liên tiếp vì tình trạng nhu cầu yếu kém.
Các nhà sản xuất đã cắt giảm sản lượng tháng thứ 2 liên tiếp trước tình hình số lượng đơn đặt hàng mới giảm mạnh. Bên cạnh đó, tốc độ giảm là lớn và đáng kể nhất tính từ tháng 9 năm 2021. So với số lượng đơn đặt hàng mới, tốc độ giảm sản lượng cũng nhanh hơn. Kết quả cho thấy số lượng công việc tồn động đã tăng lên, qua đó chấm dứt thời kỳ giảm kéo dài 4 tháng.
Trong bối cảnh số lượng đơn đặt hàng mới giảm, các doanh nghiệp đã yêu cầu sản xuất giảm và cũng đã giảm số lượng nhân viên tương ứng trên thực tế. Việc làm đã giảm với tốc độ đáng kể và mức giảm mạnh nhất trong giai đoạn 14 tháng.
Các nhà sản xuất cũng giảm nhập hàng hóa đầu vào, tuy nhiên tồn kho hàng mua đã tăng trong lần đầu tiên của 3 tháng vì sản lượng giảm tới mức mà hàng hóa đầu vào thường được lưu kho mà không được đưa vào sản xuất. Mặt khác, sản lượng giảm mạnh đã khiến hàng tồn kho thành phẩm sụt giảm.
Niềm tin kinh doanh vẫn ở mức thấp dù đã được cải thiện
Đánh giá của S&P Global cho thấy chi phí đầu vào đã tăng với tốc độ nhanh nhất trong 5 tháng, dù mức tăng vẫn khá nhẹ và ở tốc độ tăng chậm hơn nhiều so với thời gian trước trong năm. Các thành viên nhóm khảo sát nêu nguyên nhân ở những nơi giá cả đầu vào tăng là vì chi phí nguyên vật liệu, vận chuyển và khí đốt đều tăng. Mặt khác, thời gian giao hàng của nhà cung cấp bị kéo dài ở tháng thứ 2 liên tiếp, tuy nhiên mức độ kéo dài chỉ ở mức nhẹ.
Các công ty có mức tăng chi phí tương đối nhẹ đã có thể hạ giá bán hàng ở tháng thứ 2 liên tiếp nhằm kích thích nhu cầu của khách hàng.
Mặc dù có cải thiện đôi chút nhưng niềm tin trong tháng 12/2022 về triển vọng sản lượng trong vòng 1 năm tới vẫn ở mức thấp dù đã giảm thành mức thấp của 14 tháng trong tháng 11/2022. Trong nhóm khảo sát, một số thành viên của nhóm đã bày tỏ sự lo ngại rằng các điều kiện thị trường khó khăn sẽ vẫn tiếp tục tồn tại trong năm nay. Mặt khác, một số người trả lời khảo sát rằng họ cảm thấy lạc quan và tin tưởng rằng nhu cầu sẽ hồi phục, qua đó khiến số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới cũng như sản lượng sẽ tăng lên.
Ông Andrew Harker, Giám đốc Kinh tế tại S&P Global Market Intelligence bình luận về kết quả khảo sát và cho hay ngành sản xuất của Việt Nam trong tháng 12 năm 2022 tiếp tục gặp nhiều khó khăn, một phần vì nhu cầu khách hàng giảm tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm như Mỹ, EU, và Trung Quốc. Việc tìm kiếm thêm các đơn đặt hàng mới vẫn sẽ gặp khó khăn cho đến thời điểm những thị trường chủ lực này có dấu hiệu khởi sắc. Một số công ty cho hay họ dự đoán rằng nhu cầu vẫn suy yếu ít nhất là trong ngắn hạn.
Ông Andrew Harker nhấn mạnh rằng: “Các nhà sản xuất đã đối phó với tình hình suy giảm số lượng đơn đặt hàng mới một cách nhanh chóng khi dữ liệu chỉ số PMI mới nhất cho thấy việc làm, sản lượng và hoạt động mua hàng suy giảm đáng kể hơn, đồng thời giá bán hàng cũng giảm để kích cầu tiêu dùng. Sản lượng công nghiệp được dự báo tăng 6,8% cho năm 2023, đây là một tỉ lệ tăng thấp hơn so với năm 2022”.