Đầu tư cổ phiếu ngân hàng cần quan tâm những yếu tố nào?
BÀI LIÊN QUAN
Thanh khoản vẫn ở mức thấp, tăng trưởng vượt trội khó lặp lại với các công ty chứng khoánThanh khoản dần sôi động hơn, cơ hội nào cho cổ phiếu chứng khoán?Nhà đầu tư kỳ vọng bất động sản "ăn theo" chứng khoánKhác với đặc trưng ngành ngân hàng trên thế giới, về cơ bản, ngành ngân hàng Việt Nam không có tính chu kỳ và chưa có điểm tới hạn. Trong giai đoạn vật lộn với nợ xấu hồi 2011 - 2015, nhìn chung lợi nhuận các ngân hàng vẫn tăng trưởng. Sang giai đoạn 2015 - 2018, sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) thắt chặt định lượng, lợi nhuận các ngân hàng tại Việt Nam càng tăng mạnh hơn giai đoạn trước đó.
Thực tế, lợi nhuận ngân hàng Việt Nam không phụ thuộc nhiều vào yếu tố lãi suất như nhiều người nghĩ. Chẳng hạn, khi có biến động từ bên ngoài, hay khi Fed tăng lãi suất thì chênh lệch lãi suất VND - USD sẽ hạ xuống. Khi đó, việc nắm giữ VND không còn là lựa chọn tốt, điều này khiến lượng VND giảm xuống và lãi suất VND tăng lên. Các ngân hàng cũng không ngồi yên mà sẽ "chuyển hóa" áp lực tăng lãi suất huy động bằng việc tăng lãi suất cho vay. Điều này lý giải vì sao lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay vẫn tăng dù Ngân hàng Nhà nước không hề nâng lãi suất điều hành.
Hoặc ngay cả khi một nhà đầu tư rút tiền khỏi thị trường chứng khoán thì lượng tiền thường nằm tại ngân hàng và điều đó đã khiến chi phí vốn của ngân hàng hạ xuống. Nói tóm lại, ngân hàng là tổ chức tài chính trung gian nên tăng trưởng của ngân hàng tại Việt Nam phụ thuộc nhiều hơn vào hạn mức tăng trưởng tín dụng thay vì phụ thuộc vào lãi suất.
Gần đây, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước tuyên bố tiếp tục giữ mục tiêu tăng trưởng tín dụng ở mức 14% trong năm 2022, dù dư nợ tín dụng riêng 6 tháng đầu năm đã tăng tới 9,35%. Có thể thấy, động thái này của Ngân hàng Nhà nước là nhằm kiềm chế lạm phát.
Việc room tín dụng hạn hẹp khiến người dân khó vay tiền, doanh nghiệp khó huy động vốn để sản xuất, trong khi tín dụng USD không phải bên nào cũng tiếp cận được.
Bên cạnh room tín dụng, lợi nhuận của ngân hàng nói chung và diễn biến giá cổ phiếu ngân hàng nói riêng cũng phụ thuộc vào 3 yếu tố quan trọng là: biên lợi nhuận NIM, nợ xấu và lợi nhuận từ hoạt động dịch vụ. Trong đó, rủi ro nợ xấu là một trong những nguyên nhân khiến cổ phiếu ngân hàng giảm mạnh trong thời gian qua. Tuy nhiên, thực tế nhiều ngân hàng đã tăng dự phòng để "phòng thủ". Nợ xấu là đương nhiên xuất hiện, nhưng vấn đề là ở tỷ lệ nợ xấu và mức độ trích lập dự phòng rủi ro.
Đối với rủi ro nợ xấu bất động sản, nguy cơ khủng hoảng thanh khoản hiện thấp hơn nhiều so với năm 2008 vì 3 lý do. Thứ nhất, các ngân hàng chủ yếu làm trung gian phát hành trái phiếu doanh nghiệp thay vì mua và nắm giữ. Thứ hai, thị trường bất động sản hiện vẫn khá tích cực, có bất động sản là bán khá dễ dàng, trong khi đó, ngân hàng chỉ là trung gian vốn nhưng nắm cả "đầu mua" và "đầu bán". Thứ ba, các ngân hàng thường chỉ cho vay khoảng 70% giá trị bất động sản theo giá thẩm định.
Về cơ bản, những ngân hàng thương mại chỉ thực hiện nhiệm vụ trung gian nhưng vẫn "sống tốt", rủi ro chỉ nằm ở những ngân hàng có sự ràng buộc chặt chẽ với các tổ chức kinh tế khác.