Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) “giải mã” việc nâng dự báo tăng trưởng năm 2022 của Việt Nam lên 7%
BÀI LIÊN QUAN
Giám đốc IMF: Lạm phát có thể sẽ được kiềm chế vào năm tớiIMF: Tránh suy thoái kinh tế là một việc hết sức khó khăn nhưng Mỹ sẽ làm đượcGiám đốc IMF: Không bỏ ngỏ khả năng suy thoái toàn cầu6 tháng đầu năm 2022, Việt Nam đã chứng kiến sự phục hồi của nền kinh tế một cách nhanh chóng
Cụ thể, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã cho rằng, triển vọng tăng trưởng lạc quan của Việt Nam đang đi ngược chiều với xu hướng chậm lại ở những nền kinh tế khác trong khu vực Châu Á. Và lạm phát cũng ở mức tương đối thấp của Việt Nam là một ngoại lệ trong khu vực.
Trong 6 tháng đầu năm 2022, Việt Nam đã chứng kiến sự phục hồi của nền kinh tế một cách nhanh chóng khi mà các hạn chế của đại dịch được nới lỏng sau khi tiến hành áp dụng chiến lược sống chung với đại dịch COVID-19 cũng như chiến dịch tiêm chủng quyết liệt. Theo đó, các chính sách hỗ trợ như duy trì lãi suất thấp cũng đã thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, kết hợp với chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ cũng đã giúp gia tăng sản lượng ngành chế tạo, phục hồi hoạt động bán lẻ và du lịch.
IMF: Tránh suy thoái kinh tế là một việc hết sức khó khăn nhưng Mỹ sẽ làm được
Trong báo cáo mới được đưa ra của mình, IMF nhấn mạnh rằng những thách thức đối với nền kinh tế Mỹ hiện nay bao gồm lạm phát tăng cao cùng với đó là việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) mạnh tay nâng lãi suất để kiểm soát lạm phát tăng cao ở nước này.IMF dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam sẽ tăng tốc trong năm 2023
Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF đã đưa ra dự báo về sự tăng trưởng của kinh tế thông qua đợt tham vấn Điều khoản IV với Việt Nam. Cụ thể dự báo kinh tế nước ta sẽ đạt mức tăng trưởng 6% trong năm nay và 7,2% vào năm 2023 tương đương mức tăng trước khi đại dịch bùng phát là năm 2019.Cũng theo đó, thời gian mới đây, Quỹ Tiền tệ quốc tế đã tiến hành nâng dự báo tăng trưởng của Việt Nam lên mức 7% trong năm 2022, so với dự báo được đưa ra trước đó 3 tháng tăng 1 điểm % và là lần đầu tiên điều chỉnh tăng đáng kể duy nhất trong số các nền kinh tế lớn của Châu Á. Đây chính là mức tăng trưởng cao nhất nằm trong nhóm ASEAN-6.
Vào hồi tháng 4/2022, IMF đã dự báo Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Singapore và Philippines sẽ có mức tăng trưởng GDP lần lượt là 5,4%; 3,3%; 5,6%; 3,7%; 6,5% trong năm 2022. Đến hồi tháng 7/2022, dự báo cho Indonesia cũng được điều chỉnh giảm xuống còn mức 5,3% và Thái Lan chỉ còn 2,8%, Malaysia chỉ còn 5,1%, Philippines tăng lên 6,7%.
Năm 2023, Quỹ Tiền tệ quốc tế hạ dự báo tăng trưởng của Việt Nam là 0,5 điểm % xuống còn 6,7%
Quỹ này cũng đã tiến hành dự báo tăng trưởng trong năm 2023 của Việt Nam là 0,5 điểm % xuống còn 6,7% nhưng đó vẫn chỉ là con số khởi sắc so với triển vọng có phần mờ nhạt ở những nơi khác đồng thời cũng sẽ là mức tăng cao nhất trong số các nền kinh tế lớn tại Châu Á. Ở chiều hướng ngược lại, ước tính mức tăng trưởng cho Châu Á cũng đã giảm xuống 4,2% và 4,6% trong năm 2022 và năm 2023 theo như Báo cáo cập nhật Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF mới nhất.
Có thể thấy, áp lực lạm phát của Việt Nam nằm chủ yếu ở một số hàng hóa ví dụ như nhiên liệu cũng như các dịch vụ liên quan đến lĩnh vực vận tải. Người tiêu dùng cũng phần nào không bị ảnh hưởng bởi sự gia tăng giá lương thực ở trên toàn cầu bởi nguồn cung ở trong nước vẫn còn dồi dào còn giá thịt lợn ghi nhận giảm so với mức đỉnh của năm 2021 cũng như gạo - đây chính là lương thực chính tại thị trường Việt Nam vẫn còn rẻ hơn so với các loại ngũ cốc khác ví dụ như lúa mì. Hơn thế, mức tăng giá tối đa đối với các dịch vụ điển hình như y tế hay giáo dục cũng khá là nhẹ.
Dù vậy thì theo Quỹ Tiền tệ quốc tế, lạm phát cũng có thể tăng lên khi mà hoạt động kinh tế trở lại với tốc độ tối đa. Chi phí vận chuyển cao hơn cùng các mặt hàng như phân bón và thức ăn chăn nuôi cũng có thể làm gia tăng nhiều loại hàng hóa cũng như dịch vụ hơn từ đó gây thêm áp lực về lạm phát.
Có thể thấy, sự phục hồi của thị trường Việt Nam cũng đã gặp phải những khó khăn bởi tăng trưởng trên toàn cầu giảm tốc. Và trong báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của Quỹ tiền tệ quốc tế cũng đã hạ dự báo tăng trưởng xuống mức 3,2% trong năm 2022 và năm 2023 là 2,9% trong bối cảnh tác động xung đột giữa Nga và Ukraine hay sự suy thoái tại Trung Quốc cũng như các nền kinh tế tiên tiến. Chính sự suy giảm này cũng có nghĩa là nhu cầu đối với mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam giảm, đáng chú ý đến từ các đối tác thương mại trọng yếu như Trung Quốc, Hoa Kỳ cũng như Liên Minh Châu u. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang tiến hành siết chặt các quy định tài chính khi mà Mỹ cùng các nền kinh tế phát triển khác tăng lãi suất để có thể kiềm chế lạm phát. Và việc này cũng đã làm tăng chi phí tài chính đồng thời cũng có thể gây ra hiện tượng dòng vốn trở nên đảo ngược. Quỹ tiền tệ Quốc tế cũng cho rằng, những bất ổn của thị thương mại trên toàn cầu cùng thị trường tài chính cũng có thể gây ra tình trạng tiêu cực đến sự phục hồi và đặc biệt là trong trường hợp một số ngành sẽ mất đi khả năng tiếp cận hàng hóa trung gian cần thiết bởi chuỗi cung ứng bị gián đoạn. Điều này cũng có thể làm hạn chế đi các quỹ đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam từ đó làm giảm đi tốc độ tăng trưởng sản xuất cũng như công nghệ.
Quỹ tiền tệ quốc tế khuyến nghị: “Các nhà hoạch định chính sách cũng cần phải thực hiện những thay đổi kịp thời điển hình như Chính sách tài khóa cần đi đầu trong việc hỗ trợ quá trình phục hồi, nhưng cũng cần được điều chỉnh một cách linh hoạt để có thể phù hợp với các điều kiện kinh tế đang phát triển”.
Bên cạnh đó, ngân hàng Trung ương cũng nên tập trung vào rủi ro lạm phát gia tăng đồng thời cũng định sẵn hành động khi cần thiết nhưng vẫn đảm bảo được mục tiêu lạm phát. Các cơ quan chức năng cũng cần phải tiếp tục xử lý các khoản nợ xấu trong hệ thống ngân hàng cũng như giám sát chặt chẽ các rủi ro tiềm ẩn ở trên thị trường bất động sản để có thể đảm bảo ổn định tài chính.
Mặc dù vậy, triển vọng tích cực trên vẫn còn phụ thuộc lớn vào những rủi gia gia tăng và đe dọa đến viễn cảnh phục hồi. Rủi ro này cũng bao gồm tăng trưởng chậm lại hoặc là lạm phát đình đốn diễn ra tại những thị trường xuất khẩu chủ lực cũng như cú sốc hàng hóa thế giới vẫn tiếp tục diễn ra, chuỗi cung ứng trên toàn cầu bị gián đoạn hay các biến chủng COVID-19 mới xuất hiện. Không những thế còn có những thách thức đến từ trong nước như tình trạng thiếu hụt lao động hay lạm phát gia tăng cũng như rủi ro cao hơn trong khu vực tài chính.
Cũng trong bối cảnh quá trình phục hồi trong nước mới bắt đầu thì triển vọng về nhu cầu ở trên toàn cầu đã dần yếu đi và rủi ro lạm phát có thể gia tăng,... Trước mắt, liên quan đến chính sách tài khóa, trọng tâm là nên nhắm đến việc tập trung triển khai gói chính sách hỗ trợ phục hồi cũng như phát triển kinh tế. Song song với đó cũng cần mở rộng mạng lưới an sinh xã hội có mục tiêu từ đó giúp cho người nghèo cùng những người dễ tổn thương chống đỡ tác động của cú sốc giá nhiên liệu hay như gia tăng lạm phát. Còn trong khu vực tài chính thì khuyến nghị đưa ra chính là theo dõi chặt chẽ cũng như tăng cường công tác báo cáo và nợ xấu đồng thời cũng ban hành các cơ chế xử lý tình trạng mất đi khả năng trả nợ.