Ông Đỗ Hòa - Chuyên gia quản trị doanh nghiệp nhận định: Có thị phần là còn mình, mất thị phần là mất hết!
BÀI LIÊN QUAN
Chuyên gia Nguyễn Văn Đỉnh: Quy định thời hạn sở hữu chung cư trái luật dân sựChuyên gia nhận định: “Mùa cao điểm” sẽ không bao giờ tới với doanh nghiệp logisticsChuyên gia là gì? Cách để trở thành chuyên gia trong một lĩnh vực nhất định“Khó càng thêm khó” đối với xuất khẩu truyền thống
Chuyên gia quản trị doanh nghiệp Đỗ Hòa trong Tọa đàm ‘Diễn biến kinh tế 2022 - 2023 nhận định rằng: “Việt Nam của chúng ta có nền kinh tế phụ thuộc vào nước ngoài rất nhiều, với cơ cấu xuất khẩu lớn”. Mặc dù vậy thì nếu như nhìn sâu vào số liệu và bản chất của vấn đề thì chúng ta vẫn chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu và nông sản thô theo kiểm OEM với mức giá trị thấp dù cho đó là thị trường lớn nhất là Mỹ hay lớn nhì đó là Trung Quốc, Châu Âu, Nhật - Hàn,... Chưa kết, cũng theo ông Hòa, trong thời điểm này, tất cả các thị trường nói trên đều đang gặp phải khó khăn.
Chuyên gia nói gì khi giới đầu tư lo ngại trước lời đồn Credit Suisse sụp đổ?
Sau khi chi phí bảo hiểm phá sản tăng mạnh và các trái phiếu rủi ro nhất mà ngân hàng nắm giữ trượt giá, Credit Suisse đang chịu sức ép rất lớn.Lộ diện phân khúc BĐS được giới chuyên gia đánh giá cao
Theo dữ liệu về thị trường bất động sản (BĐS) quý 3/2022 của Batdongsan.com.vn, phân khúc BĐS thấp tầng vẫn ghi nhận giá rao bán tăng trưởng tốt so với quý trước tại một số địa phương. Trái với mức giá gia tăng, khách hàng quan tâm đến thị trường BĐS thời gian qua vẫn không có nhiều biến động.Thị trường Mỹ
Không tính vào loại nông - hải sản đặc thù thì thực tế là Mỹ chỉ nhập được các loại hàng điện tử cao cấp - đây là các loại sản phẩm mà chúng ta không làm được. Chính vì thế mà chúng ta bán vào thị trường Mỹ là khá ít.
Nếu như xét về nội hàm thì những hàng hóa xuất khẩu với giá trị gia tăng như điện thoại, linh kiện điện tử từ Việt Nam đều có xuất phát từ các công ty FDI.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho rằng, Samsung nói nhà máy của họ ở Thái Nguyên đã được nội địa hóa 55% nhưng theo một nghiên cứu của một trường đại học uy tín ở Việt Nam và phần giá trị gia tăng mà các doanh nghiệp Việt đóng góp vào các sản phẩm của Samsung chỉ khoảng 18%.
Đến thời điểm hiện tại, nền kinh tế của Mỹ đang trong giai đoạn suy giảm và lạm phát tăng cao, sức mua giảm. Và với quá trình toàn cầu hóa, nhiều nước phát triển ở phương Tây, trong đó có Mỹ đã đẩy các loại sản xuất giá rẻ và gây ô nhiễm môi trường đến các nước đang phát triển. Sau một thời gian thì Trung Quốc đã tiến hành bẻ gãy các rào cản của chiến lược này bằng cách buộc các doanh nghiệp FDI và phải chuyển giao các công nghệ cốt lõi cho các doanh nghiệp nội địa.
Và với việc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung nổ ra cũng như việc Trung Quốc vẫn đang theo đuổi chính sách Zero Covid đã khiến cho chuỗi cung ứng của thế giới đã bị đứt hãy. Và rồi Mỹ không mua hàng của Trung Quốc nữa mà mua từ nhà cung khác và đồng nghĩa với giá cao hơn trước.
Ngoài ra, trước đây, Tổng thống Donald Trump đã ra lệnh cho nhiều ông lớn trong ngành công nghệ Mỹ đưa sản xuất quay về nước Mỹ. Và trong tương lai thì Mỹ sẽ tiến hành giảm nhập khẩu linh kiện điện tử và hàng công nghệ từ Việt Nam cả Asean lẫn Châu Á.
Thị trường Trung Quốc
Cũng bởi đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi lệnh trừng phạt của Mỹ, cộng với khủng hoảng nghiêm trọng ở trong ngành bất động sản - tài chính và chính sách Zero COVID, Trung Quốc cũng thường xuyên siết biên giới. Cũng theo đó, chính sách đóng các đường biên của họ luôn khó đoán và rất khó để biết khi nào họ đóng khi nào họ mở và đặc biệt là đường tiểu ngạch.
Ông Đỗ Hòa cho biết, trong chuỗi cung ứng của thế giới, nuôi trồng chính là mắt xích chịu nhiều rủi ro nhất bởi vì nó phụ thuộc khá nhiều vào thời tiết và sự biến động về giá. Còn những khâu làm ra sản phẩm có thương hiệu hay cung ứng và thương mại ít rủi ro hơn. Mà trong rất nhiều loại nông sản xuất khẩu sang Trung Quốc thì nông dân Việt Nam chính là người trồng, còn thương lái Trung Quốc đi mua.
Thị trường Nhật – Hàn
Sau khi có các FTA thì các doanh nghiệp đến từ Nhật - Hàn đang tận dụng hoàn hảo chúng, nhập linh kiện từ nước họ và lắp ráp ở Việt Nam rồi sẽ trả thành phẩm về nước cho họ hoặc xuất xuất qua Mỹ. Có thể nói rằng nhiều doanh nghiệp về nước hoặc xuất khẩu qua Mỹ. Có thể nói rằng, có nhiều doanh FDI đang tận dụng các FDA giỏi hơn các doanh nghiệp Việt.
Và với thị trường Nhật - Hàn, xuất nhập nhiều hay ít còn phụ thuộc vào việc bán cho nước thứ 3 như thế nào, khả năng tiêu thụ của nước thứ 3 ra sao.
Ông Đỗ Hòa nhấn mạnh: “Nền kinh tế Nhật Bản đang có dấu hiệu suy giảm và lạm phát cao. Dù thế thì Nhật Bản vẫn là một thị trường khá tiềm năng nhưng lại khó tính. Các doanh nghiệp Việt đã phải có những sản phẩm sáng tạo với tiêu chuẩn kỹ thuật mới lạ, từ đó đáp ứng được tiêu chuẩn của Nhật Bản thì mới có thể thành công được".
Tổng quan, Nhật Bản chính là một thị trường có thể khai thác tốt dù cho khối lượng đặt hàng không lớn và trái ngược với Mỹ. Hoặc nôm na là 1 đơn hàng đi thì Nhật chỉ có vài container và mỗi đơn có những sáng tạo khác nhau nhưng bù lại giá cao. Trong khi hàng đi Mỹ thường là nguyên liệu thô và số lượng thường với vài chục container, giá trị thấp.
Thị trường Châu Âu
Ông Đỗ Hòa phân tích tiếp: “Chúng ta thường nhập máy móc và thiết bị từ Châu Âu về thị trường Việt Nam để tiến hành gia công làm OEM. Chính vì thế mà các doanh nghiệp Châu Âu hiểu rõ được tường tận năng suất và ưu điểm của từng dây chuyền và máy móc của các doanh nghiệp Việt. Vì thế mà thường họ đã tính toán hết và chỉ để lại cho các doanh nghiệp Việt một chút chi phí gia công cỏn con. Và nếu như doanh nghiệp Việt làm ăn chân chính chỉ chuyên OEM cho thị trường Châu Âu là rất khó”.
Vậy nên, nếu muốn kiếm được nhiều tiền ở thị trường Châu Âu thì chúng ta cần trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp với các doanh nghiệp bản địa. Nếu muốn thế thì chúng ta cần phải phát triển R&D ra sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao rồi chúng ta sẽ có thể tốt lên hơn từng ngày và đến một ngày nào đó thì có thể cạnh tranh với Châu Âu.
Bên cạnh đó, cuộc xung đột giữa Nga - Ukraine cũng đang khiến cho tình hình xuất khẩu của doanh nghiệp Việt đang ngày càng khó hơn. Và bởi vì tàu phải đổi cảng đã khiến cho chi phí logistics tăng lên, vấn đề là công nợ cũng khó lấy hơn trước.
Dù cho khủng hoảng năng lượng cũng như lạm phát của Châu Âu có ngày càng gia tăng thì hàng rào kỹ thuật vẫn còn ở đó. Các Chính phủ của Châu Âu cũng rất giàu kinh nghiệm và họ thường đưa ra những rào cản để có thể bảo vệ được doanh nghiệp của mình.
Cũng theo lời ông Hòa, nhiều doanh nghiệp Việt nghĩ rằng chỉ tập đoàn lớn hoặc toàn cầu mới quan tâm đến giá dầu và còn mình thì không cần là không đúng. Và kể cả khi bạn chỉ xuất khẩu há cảo hay thanh long đi Châu Âu cũng sẽ bị ảnh hưởng khi mà giá dầu nhích lên hoặc xuống.
Cũng như thế thì nếu như giá logistics quá cao, thời gian lại vận chuyển lâu hơn thì có nhiều khả năng người Mỹ sẽ nhập nông sản nhiệt đới từ Trung Mỹ thay vì từ Việt Nam như trước đây. Chính vì thế mà có thể nói giá nhiên liệu đã ảnh hưởng lớn đến hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Châu Âu và Châu Mỹ.
Vậy nên, để có thể ứng phó với các doanh nghiệp thì có thể ra nhãn hàng khác, bên cạnh thứ đã có sẵn như cao cấp hay trung bình, ma nguyên liệu từ nhà cung cấp khác cũng như xoay chuyển sang phân khúc giá rẻ hay chịu khó bán không lời chứ không nên giảm giá. Chúng ta cũng có thể hy sinh lợi nhuận chứ không được hy sinh thị phần. Có thị phần là còn mình, mất thị phần là mất hết!