Nguồn cơn gây ra khủng hoảng sữa bột tại Mỹ: Đứt gãy chuỗi cung ứng và những tác động ngầm từ Trung Quốc
BÀI LIÊN QUAN
Nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới đứng trước nguy cơ tăng trưởng chậm hơn Mỹ lần đầu tiên trong 30 nămNew York ban bố tình trạng khẩn cấp sau khủng hoảng sữa bộtCơn ác mộng đối với nền kinh tế MỹCuộc khủng hoảng sữa nghiêm trọng của lịch sử Mỹ
Vào ngày Quốc tế Thiếu nhi 01/06, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã tiến hành họp mặt với lãnh đạo của các tập đoàn lớn để tìm cách khắc phục và giải quyết tình trạng thiếu hụt sữa công thức nghiêm trọng. Vị tổng thống 79 tuổi chia sẻ rằng bản thân cũng là một người cha, một người ông nên ông hoàn toàn hiểu rõ những khó khăn của các bậc cha mẹ khi phải đối mặt với cuộc khủng hoảng sữa công thức kéo dài nhiều tháng qua. “Không gì căng thẳng hơn cảm giác khi bạn không thể mua được thứ mà con bạn đang rất cần”, ông Biden phát biểu trước nhân dân.
Cả ông Biden lẫn các tập đoàn sữa lớn đều cam kết sẽ làm việc liên tục cho tới khi tình trạng thiếu hụt sữa bột được giải quyết. Lần lượt các “ông lớn” trong ngành sữa như Abbott, Nestle đều đã bước đầu thực hiện trong nỗ lực giải quyết sự thiếu hụt sữa lần này.
Cụ thể, ngày 13/5, tập đoàn Abbott tuyên bố đã bắt đầu chuyển hàng triệu hộp sữa công thức sản xuất tại Ireland đến Mỹ. Ngày 17/5, công ty thực phẩm lớn nhất thế giới và thứ 3 nước Mỹ về thị phần sữa công thức Nestle thông báo sẽ thuê máy bay để chuyển gấp sữa từ Hà Lan và Thụy Sỹ về Mỹ.
Không chỉ các nhà sản xuất sữa, chính phủ Mỹ cũng đã kích hoạt Đạo luật Sản xuất Quốc phòng từ thời chiến tranh Triều Tiên nhằm thúc đẩy nguồn cung sữa công thức. Chính quyền Joe Biden cũng đã bắt đầu chiến dịch Công thức Bay để nhanh chóng chuyển sữa công thức từ châu Âu đến Mỹ. Đã có 3,7 triệu thùng sữa Kedamil của Anh, 4,6 triệu hộp của hãng Bubs Australia từ Châu Đại Dương. Lô hàng thứ 3 và thứ 4 của chiến dịch này sẽ bắt đầu từ tuần sau.
Cú sốc đánh vào nguồn cung sữa công thức
Theo thống kê từ Euromonitor International, có 4 doanh nghiệp lớn kiểm soát tới 90% thị phần sữa công thức tại Mỹ. Riêng Abbott và Reckitt Bensickiser nắm tới 80% thị phần.
Mặc dù chiếm số lượng thị phần lớn như vậy, nhưng Abbott lại chỉ vận hành một số ít nhà máy sản xuất có quy mô lớn nhằm tối đa hoá hiệu quả hoạt động, giảm thiểu giá thành. Sự tập trung sản xuất cao độ này gây ra nhiều rủi ro đối với nguồn cung. Bởi chỉ cần một nhà máy gặp sự cố, sản lượng sẽ suy giảm rõ rệt.
Và thực tế hiện nay đã diễn ra đúng như vậy. Vào tháng 2 năm nay, Abbott thông báo thu hồi ba loại sữa công thức cho trẻ sơ sinh được sản xuất tại nhà máy ở Sturgis, bang Michigan sau khi cơ quan thanh tra phát hiện một loại vi khuẩn nguy hiểm tại nhà máy này.
4 trẻ sơ sinh uống lô sữa này đã phải nhập viện, 2 trẻ trong số đó đã tử vong. Abbott phải đóng cửa nhà máy trên. Kịch ác mộng đối với ngành sữa bột tại Mỹ đã thành hiện thực bởi nhà máy Sturgis chiếm tới 25% thị phần sữa công thức trên toàn quốc và còn là nơi sản xuất cả những sản phẩm chuyên biệt cho trẻ em bị dị ứng hoặc gặp những vấn đề sức khoẻ khác.
Tổng thống Mỹ Joe Biden đã phải thừa nhận rằng ban đầu ông không ý thức được hết mức độ nghiêm trọng của việc phải đóng cửa một nhà máy từ tháng 2. Vì vậy, sau 2 tháng, ông mới cho tăng cường chỉ đạo ứng phó.
Ông Robert Ford, CEO của Abbott, đã đăng bức thư xin lỗi toàn thể người dân Mỹ vì đợt thu hồi sản phẩm và đóng cửa nhà máy của tập đoàn khiến cho tình trạng thiếu hụt sữa công thức tại Mỹ thêm trầm trọng. “Chúng tôi xin nói lời xin lỗi vì đã phụ sự kỳ vọng của các gia đình. Chúng tôi đang triển khai những khoản đầu tư lớn để đảm bảo tình trạng này sẽ không bao giờ lặp lại”, ông Ford nói.
Do tình trạng khan hiếm sữa công thức tại Mỹ đang ở mức quá nghiêm trọng, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) đã đồng ý để Abbott sớm mở cửa trở lại nhà máy ở Sturgis, bang Michigan từ ngày 4/6. Tuy nhiên, nhà máy này cần tới 6-8 tuần để đạt được công suất tối đa và mất thêm ít nhất 1 tháng để sản phẩm tới được tay người tiêu dùng.
“Với tình trạng thiếu lao động và xe tải như hiện nay, chúng tôi nghĩ phải mất 3-4 tháng nữa nguồn cung sữa công thức mới quay lại mức bình thường hơn”, ông Robert Rybick, CEO chuỗi bán lẻ Geissler's Supermarkets chia sẻ với CNN.
Việc thiếu hụt nghiêm trọng sữa công thức là vấn đề rất lớn ở Mỹ, bởi lao động nữ không được nghỉ thai sản có lương nên thường không ở nhà nuôi con bằng sữa mẹ. Nhiều phụ nữ Mỹ quay lại làm việc bình thường chỉ 1-2 tháng sau sinh.
Cơn khát sữa kéo dài hàng thập kỷ tại Trung Quốc
Mặc dù cách nhau tới nửa vòng trái đất, nhưng Trung Quốc vẫn luôn có những tác động đáng kể tới những gì diễn ra tại Mỹ và cuộc khủng hoảng sữa lần này cũng không phải ngoại lệ.
Năm 2009, 2 công dân Trung Quốc đã bị xử tử hình vì bán sữa công thức và một số sản phẩm dành cho trẻ sơ sinh có trộn lẫn malemine - một loại hóa chất công nghiệp nguy hiểm.
Cả melamine và protein đều có thành phần chính là các hợp chất Nito. Nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đã lợi dụng lỗ hổng trong quá trình đánh giá đánh giá hàm lượng protein có trong sữa để trộn melamine vào sữa nhằm đánh lừa người tiêu dùng sản phẩm của mình có hàm lượng protein cao.
Theo New York Times, khoảng 300.000 trẻ em Trung Quốc bị ảnh hưởng sức khỏe vì dùng sữa có chứa melamine, bao gồm bệnh sỏi thận và dị tật, và nhất 6 trẻ trong số này đã tử vong.
Vào tháng 06/2012, doanh nghiệp sản xuất sữa lớn nhất Trung Quốc Tập đoàn Công nghiệp Y Lợi Nội Mông đã phải thu hồi sản phẩm đã lưu hành trong 6 tháng trước đó vì nhiễm thủy ngân cao bất thường. Sau những vụ bê bối này, các bậc phụ huynh ở đất nước tỷ dân đã chuyển hướng sang sử dụng sữa ngoại.
Vào năm 2013, người dân Australia thấy những kệ hàng bày bán sữa công thức trong siêu thị trống không. Hoá ra nguyên nhân là du học sinh và khách du lịch Trung Quốc đã vét sạch số sữa bột được bày bán để chuyển về quê nhà. Không lâu sau, các siêu thị Australia phải hạn chế lượng sữa công thức mà mỗi người được phép mua mỗi ngày.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Trung Quốc cũng không ngừng mở rộng ra nước ngoài để thâu tóm các nguồn lực cần cho hoạt động sản xuất. Trẻ sơ sinh tại Trung Quốc chỉ chiếm khoảng 10% số trẻ sơ sinh toàn thế giới nhưng tiêu thụ tới 33% lượng sữa công thức.
Các tập đoàn sản xuất sữa lớn như Abbott hay Nestle đã nhanh chóng chớp lấy cơ hội để xây dựng nhà máy, mở rộng thị phần tại Trung Quốc. Điều này, khiến các bậc cha mẹ tại đây tin rằng tiền nào của nấy, giá sữa ngoại càng đắt thì chất lượng sản phẩm càng cao và càng muốn mua cho con mình. Vậy nên các hãng sữa ở Trung Quốc không cạnh tranh với nhau bằng cách giảm giá mà là bằng cách tăng giá.
Trong hai năm ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, các bậc phụ huynh Trung Quốc vẫn tăng cường mua sữa công thức thông qua các nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới như JD.com, Tmall hay Amazon. Khoảng 20% tổng lượng sữa công thức nhập khẩu vào Trung Quốc trong năm 2020 được mua qua các ứng dụng thương mại điện tử với trị giá khoảng 30 tỷ nhân dân tệ, tương đương 4,5 tỷ USD.
Trong khi đó, tổng giá trị thị trường sữa công thức của Mỹ chỉ vào khoảng 4 tỷ USD. Tổng quy mô thị trường của Trung Quốc lớn gấp 10 lần Mỹ.
Lượng sữa trị giá 4,5 tỷ USD mà Trung Quốc nhập khẩu nói trên có nguồn gốc từ nhiều nước phát triển như Australia, Mỹ và khu vực châu Âu. Nếu giả sử 20% trong số này đến từ Mỹ thì giá trị đã là 900 triệu USD, tương đương 22,5% thị trường Mỹ. Nếu 30% lượng sữa Trung Quốc nhập khẩu thông qua thương mại điện tử là đến từ Mỹ thì giá trị lên tới 1,35 tỷ USD, tương ứng 34% thị trường Mỹ.
Cho dù Trung Quốc không mua sữa trực tiếp từ siêu thị Mỹ thì việc tích cực gom hàng từ các thị trường khác cũng khiến cho nguồn cung sữa công thức toàn cầu thêm khan hiếm, và làm cho Mỹ khó nhập khẩu để xoa dịu cuộc khủng hoảng trong nước hiện nay.