Lý Thánh Tông – vị vua đại tài được dân chúng đồng lòng ủng hộ
BÀI LIÊN QUAN
Đúng công nghệ, đúng thời điểm: Hòa Phát thành công soán ngôi trong mảng thép xây dựng PominaME là gì? Cơ hội nghề nghiệp với các kỹ sư MELiberal art là gì? Những cơ hội nghề nghiệp tuyệt vời mà chiếc chìa khóa vạn năng này đem lạiLý Thánh Tông là vị vua thứ ba của nhà Lý trong suốt thời kì cai trị ông luôn tôn vinh sự nhân ái cũng như xây dựng những chủ trương khoan hồng tránh triệt để chiến tranh để giữ thái quốc dân an. Ông là một trong ba vị vua tạo nên sự trăm năm thịnh thế của triều Lý. Hãy cùng tìm hiểu quá trình trị vì của vua Lý Thánh Tông đối với đất nước vang danh lịch sử đã thu phục được lòng dân và kẻ thù như thế nào.
1. Tiểu sử vua Lý Thánh Tông
Vua Lý Thánh Tông tên thật là Lý Nhật Tôn sinh ngày 30/03/1023 tại cung Long Đức, ông là con của vua Lý Thái Tông và Linh Cảm Hoàng hậu hay Kim Thiên Hoàng hậu. Lý Thánh Tông là con trai trưởng nên sau khi vua Lý Thái Tông lên ngôi đã sắc phong Lý Nhật Tôn là Thái tử.
Dựa trên ghi chép của cuốn sách Đại Việt sử lược (hay còn gọi là cuốn Việt sử lược) đã ghi lại: “Thái tử Lý Nhật Tôn thời điểm đó đã bộc lộ tư chất thông minh từ rất sớm. Ông đã sớm trở thành một người “tinh thông kinh truyện, am hiểu âm luật, lại càng giỏi về võ lược”.”
Năm 1033, ông được phong làm Thái tử phong tước làm Khai Hoàng Vương và ban cho ông cung Long Đức để nghỉ ngơi và làm việc. Qua đó đã tạo điều kiện để Thái tử Nhật Tôn thường xuyên tiếp xúc với đời sống của nhân dân từ rất sớm, vì thế Thái tử Lý Nhật Tôn đã sớm đồng cảm được với nỗi khổ của nhân dân và những điều bất công mà họ phải chịu đựng. Có lẽ vì thế mà trong trái tim của vua Lý Thánh Tông luôn ẩn chứa một tấm lòng vị tha, nhân hậu và thương dân.
Đây cũng chính là tiền đề cho những chủ trương quản lý đất nước của vua Lý Thánh Tông sau này giúp trở thành một nhà vua anh minh vừa có tài lại còn có đức. Đến năm 1037, vua Lý Thái Tông quyết định hành động phong Thái tử Nhật Tôn giữ chức Đại Nguyên Soái khi thấy những tố chất văn võ song toàn của ông.
Thành tích đầu tiên của Lý Thái Tông cùng Lý Thánh Tông đạt được chính là thắng lợi của hai cha con ở trận đánh Lâm Tây khi này Thái tử Lý Nhật Tông mới tròn 15 tuổi. Đến năm Thái tử Nhật Tôn 17 tuổi ông đã được vua Lý Thái Tông giao giữ trọng trách Giám quốc chuyên trông coi những việc triều chính mỗi khi vua Lý Thái Tông ra trận.
Đến năm 1042, nhân dân ở Châu Văn nổi dậy binh biến nên Thái tử Nhật Tôn đã được vua Lý Thái Tông phong làm Đô đốc Đại Nguyên Soái đến đây để dẹp loạn. Năm 1043, Thái tử Nhật Tôn dẫn quân đi trấn áp ở Châu Ái và giành được thắng lợi vang dội.
Về thành tích binh nghiệp của Thái tử Nhật Tôn thì sử sách Đại Việt sử lược có ghi chép lại: “ Thánh Tông đánh dẹp giặc giã, tới đâu cũng đều đánh thắng được cả. ” Qua đó, có thể thấy được tài cầm quân của Lý Thánh Tông dù tuổi đời còn rất trẻ và cả sự yên dân của ông cũng rất tốt.
2. Lý Nhật Tôn lên ngôi vua và đổi tên nước thành Đại Việt
Năm 1054, vua Lý Thái Tông già yếu và không đủ sức khỏe để trị vì đất nước nên đã quyết định cho phép thái tử Nhật Tôn có thể tham gia vào những buổi chầu để nghe các quan lại báo cáo giúp hiểu rõ hơn về đất nước cũng như những việc phải làm trong tương lai.
Cuối năm 1054, vua Lý Thái Tông băng hà, Thái tử Lý Nhật Tôn lên ngôi Hoàng đế xưng vương Lý Thánh Tông lấy niên hiệu tiên phong là Long Thụy Tỉnh Thái Bình. Trong suốt thời hạn trị vì đất nước từ năm 1054 đến năm 1072 vua Lý Thánh Tông đã đổi niên hiệu 5 lần để phù hợp với hoàn cảnh và cũng là những thời điểm biến chuyển khác nhau trong cuộc đời của ông.
Chính sách đối nội thu phục lòng dân
Sau khi lên ngôi vào năm 1054, hành động đầu tiên của vua Lý Thánh Tông quyết định đổi tên nước từ Đại Cồ Việt trở thành Đại Việt. Quốc hiệu này đã được sử dụng trong suốt 346 năm tới tận khi Hồ Quý Ly lên ngôi quyết định đổi tên nước thành Đại Ngu vào năm 1400.
Trong suốt thời gian trị vì đất nước, chính sách cai trị của vua Lý Thánh Tông được miêu tả là một vị vua nhân từ và có những chủ trương quản lý ôn hòa và khoan hồng. Ông thực thi chủ trương giảm mức phạt cũng như những hình phạt đối với những người phạm tội ở trong nước. Để xóa bỏ những hình thức nhục hình ông đã đốt hết toàn bộ những đồ vật tra tấn, hành hình ngay sau khi lên ngôi.
Đối với những người nắm giữ chức quan liên quan đến tư pháp, cai ngục đều được tăng bổng lộc để thực thi các mức án phạt theo một cách công bằng nhất. Để giảm gánh nặng và khổ cực cho nhân dân thì vua Lý Thánh Tông đã phát hành việc giảm tô thuế 50% cho người dân. Trước hàng loạt chủ trương quản lý mang đậm tính nhân văn như vậy thì vua Lý Thánh Tông được nhân dân rất nể phục và kính trọng vị vua với lòng nhân ái vô bờ. Cũng vì thế mà nhân dân thời này sống rất bình yên, đoàn kết và họ cũng không gây ra những trọng tội để những người quản lý có thể quản lý dân an dễ dàng.
Ông cũng rất chú trọng vào phát triển nông nghiệp để mang lại cuộc sống ấm no cho nhân dân, vua Lý Thánh Tông cũng chính là người đã ban Chiếu khuyến nông và đích thân xuống ruộng gieo mạ, gặt lúa cùng với người dân ở các miền quê. Vào mỗi năm mùa màng khó khăn vất vả, triều đình cũng triển khai chủ trương các chính sách hỗ trợ giúp người dân có thể vượt qua sự khó khăn vất vả bằng cách mở kho lương, lấy tiền của triều đình chia cho dân nghèo.
Chính sách đối ngoại của vua Lý Thánh Tông
Trước khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi, mối quan hệ giữa Đại Việt và Đại Tống được đánh giá là khá căng thẳng khi Nùng Trí Cao thường xuyên nổi dậy quấy phá. Vì thế, vua Tống đã có ý định thực hiện việc đánh Đại Việt để chiếm đất. Ngay khi biết tin này vua Lý Thánh Tông chưa đáp trả mà thực hiện các chính sách hết sức mềm dẻo để hòa hoãn như cử người mang đồ sang cống tiến cho Đại Tống. Tuy nhiên, hoàng đế Đại Tống là Tống Nhân Tông quyết định không nhận để có thể khởi binh chiếm đánh Đại Việt.
Năm 1059 Đại Việt và nhà Tống xảy ra cuộc chiến mới, vua Lý Thánh Tông lúc này biết không thể hòa hoãn nên đã cử Thân Thiệu Thái dẫn quân đánh Tống và giết chết Tống Sĩ Nghiêu cùng 4 tướng thuộc hạ thân cận của hắn. Sau đó, đội quân Đại Việt đã bắt được Chỉ huy sứ Dương Bảo Tài và những cuộc tiến đánh sau đó đều bị quân ta đập tan. Sau những thất bại ê chề thì nhà Tống đã cử người sang hòa hoãn với triều đình Đại Việt thì vua Lý Thánh Tông vẫn tiếp đón chu đáo nhưng không đồng ý việc thả Dương Bảo Tài và những quân dân đã bắt được, tuy nhiên ông cũng không giết họ mà vẫn nuôi sống họ.
Ngoài quân Tống thì thời điểm đó nước ta còn phải đối phó với đội quân Chiêm Thành, sau những cuộc tiến đánh thất bại thì nhà Chiêm đã chịu hòa hoãn và chấp nhận cống nạp lễ vật hàng năm cho Đại Việt. Tuy nhiên, đằng sau lưng vua Lý Thánh Tông thì Chiêm Thành lại cấu kết với nhà Tống để chờ phản công Đại Việt. Đến năm 1068, Chế Củ dẫn một đội quân sang gây rối ở phía biên giới của Đại Việt. Mặc dù không phải một người thích chiến tranh nhưng vua Lý Thánh Tông đã quyết định mở chiến dịch đánh Chiêm để bảo vệ bờ cõi.
Trận đánh này đã giành thắng lợi lớn và thâm chí bắt giữ được chúa Chiêm là Chế Củ, nhưng vua Lý Thánh Tông không hề chém giết hành hình mà lại thả chúa Chiêm về nước. Chính điều đó đã khiến cho nhà Tống và nhà Chiêm vừa sợ vừa nể phục và nghiêm cấm quần thần của mình quấy nhiễu biên giới hay khiêu khích Đại Việt như trước. Các nước Chiêm Thành hay Chân Lạp hàng năm đã thực hiện việc cống nạp một cách tự nguyện.
3. Qua đời và truyền ngôi cho Lý Nhân Tông
Ngày 01/02/1072, vua Lý Thánh Tông băng hà tại điện Hội Tiên sau 18 năm trị vì hưởng dương 49 tuổi. Thời điểm đó, ông đã được triều đình an táng tại Thọ Lăng, phủ Thiên Đức. Sau khi ông mất, con trai cả là Thái tử Lý Thừa Càn nối ngôi sau lấy hiệu là vua Trần Nhân Tông sau này. Nhưng vì tuổi đời quá nhỏ nên việc triều chính lúc bấy giờ do Thượng Dương Thái hậu và Nguyên phi Ỷ Lan, cùng với thái sư là Lý Đạo Thành trông coi và quyết định mọi sự.
Về sau, Nguyên Phi Ỷ Lan cùng với các cộng sự như Lý Đạo Thành và Lý Thường Kiệt đã cùng quản lý nhiếp chính giúp cho Đại Việt vẫn giữ được sự thái bình thịnh trị, giang sơn phát triển mạnh mẽ ổn định và củng cố không ngừng. Trong suốt thời đại vua Lý Thánh Tông trị vì đất nước đã mang đến những chủ trương quản lý và tăng trưởng rất đúng đắn để thế hệ sau tiếp quản dễ dàng. Ngoài việc được người dân ủng hộ ông còn đem lại những giá trị nhân văn vô cùng to lớn khi thực hiện các chủ trương cai quản đất nước.
Cũng nhờ thế, mà ông đã xây dựng nên một quốc gia Đại Việt “ trăm năm thịnh thế ” không thua kém gì so với người cha của mình. Hậu thế ngày sau vẫn luôn nhớ đến và biết ơn ông với những gì đã mang lại giúp cho đất nước được hưng thịnh phát triển, người dân thoát khỏi cảnh đói khổ, áp bức.
Lý Thánh Tông chính là một trong những vị vua vừa tài giỏi vừa có đức hạnh cực kì tốt để mở ra một thời kỳ trị vì mới không hề có nước mắt đau thương. Chính vì thế ông luôn nhận được sự kính trọng và nể phục của các quan văn võ trong triều cũng như sự ủng hộ của nhân dân.