Doanh nghiệp vẫn gặp khó dù kinh tế hồi phục mạnh: Chuyên gia nói gì?
BÀI LIÊN QUAN
Phấn đấu năm 2030 kinh tế khu vực đô thị đóng góp 85% vào GDP cả nướcKinh tế Việt Nam cạnh tranh kém hiệu quả vì chi phí logistics tăng mạnhACBS: Kinh tế Việt Nam 2 tháng cuối năm đối mặt với hàng loạt rủi roKinh tế hồi phục mạnh, doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn
Ông Phòng nhấn mạnh: “Ngân hàng Thế giới (WB) đã đánh giá kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng đáng kinh ngạc 13,7% trong quý 3 so với cùng kỳ năm 2021, đồng thời cũng nâng dự báo tăng trưởng năm 2022 của Việt Nam lên mức 7,2%, tăng đáng kể so với mức dự báo 5,3% đưa ra 4 tháng trước. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng đưa ra dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam ở mức 6,5% trong năm 2022 và cao nhất ở khu vực Đông Nam Á”.
Mặc dù vậy, ông Phòng cũng thông tin, bình quân mỗi tháng có 18,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động và 12,5 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Nếu nói cách khác thì cứ 10 doanh nghiệp gia nhập mới và quay trở lại thì có 7 doanh nghiệp tạm thời hoặc vĩnh viễn rút lui khỏi thị trường. Điều này cũng đã phản ánh khu vực doanh nghiệp vẫn bị tổn thương nghiêm trọng trước những khó khăn của kinh tế thế giới và trong nước.
Vượt khó trong quá trình phục hồi kinh tế, xuất nhập khẩu Việt Nam hướng đến kỷ lục 700 tỷ USD
Theo ghi nhận, trong 10 tháng của năm 2022, Việt Nam đã xuất siêu 9,4 tỷ USD. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 616 tỷ USD và gần chạm kỷ lục 668 tỷ USD của cả năm 2021, mục tiêu đang hướng đến cột mốc mới 700 tỷ USD.Bà Phạm Minh Hương - Chủ tịch VNDirect nhận định: Triển vọng kinh tế Việt Nam còn vững vàng, tiềm năng thị trường trong tương lai còn rất lớn
Theo bà Phạm Minh Hương, triển vọng kinh tế Việt Nam còn vững vàng và tiềm năng thị trường trong tương lai còn rất lớn.Cũng đồng quan điểm, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam - TS Nguyễn Quốc Hùng nhận xét, trong thời gian qua, các doanh nghiệp Việt Nam đã phát triển mạnh cả về số lượng và đất trời, đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhiều doanh nghiệp có quy mô lớn, hoạt động ở trong lĩnh vực cũng như cạnh tranh sòng phẳng ở trên thị trường quốc tế.
Mặc dù vậy, từ đầu năm 2022 đến nay, kinh tế thế giới diễn biến khó lường, nguy cơ suy thoái gia tăng như áp lực lạm phát trên toàn cầu, USD quốc tế tăng lãi suất với tốc độ nhanh - mạnh hơn, xu hướng tăng lãi suất của các ngân hàng trung ương ở trên thế giới, căng thẳng Nga - Ukraine,... Điển hình là giá cả xăng dầu, vật tư xây dựng cũng đã tiềm ẩn phức tạp, chuỗi cung ứng quốc tế chậm phục hồi cũng đã tác động đến việc kiểm soát lạm phát ở các nước và đặt ra những thách thức cho hoạt động của doanh nghiệp.
Chuyên gia: Năm 2023 là năm sơ kết, đánh giá giữa kỳ các kế hoạch 5 năm về kinh tế - xã hội
Cũng nhấn mạnh về những khó khăn của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, Viện Trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) - TS Trần Hồng Minh cho biết: “Đây là những khó khăn rất lớn đối với doanh nghiệp trong năm 2023. Tôi cũng nghĩ rằng là doanh nghiệp nói riêng cùng toàn thể đất nước nói chung sẽ phải có những giải pháp và phương hướng cụ thể thì mới có thể vượt qua được những khó khăn đó để tận dụng cơ hội, thời cơ mà khó khăn mang đến”.
Và trước những khó khăn của doanh nghiệp, trong văn bản góp ý Nghị quyết của Chính phủ về một số chính sách và giải pháp trọng tâm hỗ trợ cho doanh nghiệp chủ động trong việc thích ứng, phục hồi nhanh cũng như phát triển một cách bền vững đến năm 2023 thì VCCI đã nhất trí đối với việc cần phải có Nghị quyết riêng về phát triển doanh nghiệp cho cả nhiệm kỳ.
Phía VCCI cũng mong muốn các doanh nghiệp tư nhân tiến hành đăng ký chính thức theo Luật doanh nghiệp cho đến năm 2025 có đóng góp 15% GDP và năm 2030 có đóng góp 20% GDP. Đến thời điểm hiện tại, con số đóng góp mới khoảng 9% GDP. Đáng chú ý, doanh nghiệp cũng cần phải phát triển theo hướng phát triển bền vững, đến năm 2025, có ít nhất 20% số doanh nghiệp sản xuất được vận hành theo cơ chế tuần hoàn.
Ông Phòng nêu rõ, VCCI cũng đề nghị các doanh nghiệp nỗ lực năng lực tự chủ tự cường, tự lập và nâng cao tính kết nối của các doanh nghiệp tư nhân trong chuỗi tham gia sản xuất, tỷ lệ nội địa hóa các ngành cũng tăng thêm 10% đến năm 2025. Nhưng để có thể đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp, VCCI cũng mong muốn năm 2025. tỷ lệ lao động có kỹ năng tăng 10 bậc so với hiện tại theo đánh giá từ phía Diễn đàn Kinh tế Thế giới - WEF (hiện nay Việt Nam xếp hạng 93/141 quốc gia) và tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35%.
Cũng theo VCCI, năm 2023 là năm sơ kết, đánh giá giữa kỳ các kế hoạch 5 năm về kinh tế - xã hội cũng như cơ cấu lại nền kinh tế, đầu tư công, tài chính công,... Và các kết quả đạt được của năm 2023 sẽ chính là cơ sở quan trọng để nước ta có thể tiếp tục phấn đấu thực hiện các mục tiêu 5 năm đề ra. Mặc dù vậy thì sơ bộ đánh giá cũng cho thấy năm 2023 cũng là một năm dự kiến có nhiều khó khăn và thách thức cho cả quốc tế lẫn trong nước.
Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam - TS Nguyễn Quốc Hùng nói rằng, trước bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động và đặc biệt là thị trường tài chính cũng như tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong thời gian qua vẫn rất kiên định với chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt cũng như đồng bộ. Trong đó thì sẽ ưu tiên số một của Ngân hàng Nhà nước đó là kiểm soát lạm phát từ đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển, tạo đà phục hồi cho nền kinh tế. Mặc dù vậy thì vẫn còn rất nhiều những khó khăn và thách thức.
Chi tiết, từ đầu năm 2022 đến nay, Ngân hàng Nhà nước cũng đã tiếp tục chủ động điều chỉnh lãi suất linh hoạt và điều hành tỷ giá phù hợp, phối hợp đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ khác với mục đích ổn định thị trường ngoại tệ nhằm góp phần kiểm soát tình hình lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Và trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế của năm 2022 là khoảng 6 - 6,5% và lạm phát khoảng 4% của Quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước cũng định hướng tăng trưởng tín dụng trong năm 2022 khoảng 14%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến cũng như tình hình thực tế. Theo đó thì tín dụng cũng được điều hành vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ với mục đích phục hồi kinh tế, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng nhưng không chủ quan với rủi ro về lạm phát.
Ông Hùng nói rằng: “Việc tăng lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian qua phù hợp với diễn biến lạm phát thị trường trong và ngoài nước. Mặc dù lãi suất điều hành tăng nhưng Ngân hàng Nhà nước luôn yêu cầu các ngân hàng phải tiết giảm chi phí để giữ tính ổn định về mặt bằng lãi suất cho vay cũng như nghiên cứu giảm lãi suất ở một số lĩnh vực ưu tiên”.
Theo TS Trần Thị Hồng Minh, chúng ta có thể sử dụng được những lợi thế thị trường của các nước đang phục hồi và đặc biệt là những nước có mối quan hệ thương mại với Việt Nam để có thể tăng cường việc xuất khẩu.
Bà Minh nhấn mạnh: “Chúng ta cũng đang là thành viên của một số hiệp định thương mại thế hệ mới và rất quan trọng. Đó chính là cơ sở hết sức thuận lợi để có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành mở rộng thị trường, tăng cường xuất khẩu, mở rộng sản phẩm hàng hóa”.