Chuyên gia nhận định: Lo ngại nhất đối với triển vọng kinh tế Việt Nam là ở độ trễ giữa chính sách và thị trường
BÀI LIÊN QUAN
Chung cư ngoại ô tăng giá “chóng mặt”, chuyên gia chỉ rõ nguyên nhânÔng Đỗ Hòa - Chuyên gia quản trị doanh nghiệp nhận định: Có thị phần là còn mình, mất thị phần là mất hết!Chuyên gia nói gì khi giới đầu tư lo ngại trước lời đồn Credit Suisse sụp đổ?Bức tranh kinh tế Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2022 khá tích cực với mức tăng trưởng cao nhất trong 12 năm, lạm phát cũng thuộc nhóm thấp. Có thể thấy, điều này cũng tương phản với thực trạng toàn cầu trong khi nhiều ngân hàng trung ương đang phải tăng lãi suất để tiến hành kìm lạm phát. Mặc dù vậy thì vẫn còn đó những khó khăn với nền kinh tế và đặc biệt là trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động khó lường.
Nền kinh tế với tốc độ phát triển khá yếu
Thời gian mới đây, các chuyên gia của Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) đã nhận định kinh tế tăng trưởng cao kỷ lục là do mức nền thấp nhưng tốc độ mở rộng khá yếu.
Như vậy, nếu như không xét đến yếu tố mức nền thấp của cùng kỳ thì tốc độ mở của nền kinh tế trong quý 3 nhìn chung sẽ yếu hơn đáng kể so với quy luật nhiều năm trước khi dịch bệnh xảy ra. GDP trong quý 3 ghi nhận chỉ tăng 11,8% so với quý trước, chưa có sự điều chỉnh yếu tố mùa vụ.
Cổ phiếu chuyển giao dịch từ sàn UPCoM sang HOSE, Gỗ An Cường thời gian qua làm ăn ra sao?
Bắt đầu từ ngày 10/10, tổng cộng 135,8 triệu cổ phiếu của CTCP Gỗ An Cường (ACG) sẽ chính thức có phiên giao dịch đầu tiên trên sàn HOSE với mã chứng khoán là ACG.Chuyên gia nhận định về "xu thế dòng tiền": “Sóng báo cáo tài chính” trên bình diện thị trường chung sẽ khó xuất hiện!
Tính từ cuối tháng 8 đến nay, đà lao dốc hơn 250 điểm mà thị trường không hề có nhịp hồi nào quá 1,5 phiên được các chuyên gia đánh giá là khá bất thường. Không những các thông tin bất lợi xuất hiện mà thị trường còn có thể bị giải chấp liên tục trong nhiều đợt bởi tác hại của đợt bắt đáy sớm.Trong đó, ở lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp cũng như xây dựng tiếp tục mở rộng với mức tăng lần lượt là 6,6% và 3,3% so với quý trước còn lĩnh vực công nghiệp và xây dựng đều ghi nhận tăng trưởng thấp hơn đáng kể so với giai đoạn trước dịch bệnh.
Đối với lĩnh vực dịch vụ dù cho có ghi nhận mức tăng mạnh theo năm nhưng gần như không có sự tăng trưởng so với quý trước. Và trong khu vực dịch vụ, động lực tăng trưởng được duy trì ở nhóm dịch vụ lưu trú và ăn uống, hoạt động vui chơi giải trí với mức tăng lần lượt là 14% và 13% so với quý trước.
Ở chiều hướng ngược lại, GDP của lĩnh vực bán lẻ hàng hóa và vận tải giảm lần lượt là 8,6% và 4,6% so với quý trước, khác với xu hướng mở rộng của hai lĩnh vực này trong những năm đại dịch COVID-19.
Còn đối với dịch vụ tài chính, nhóm ngân hàng và bảo hiểm cũng cho thấy được sự cải thiện, so với cùng kỳ tăng 8,7% và so với quý trước tăng 14% nhưng nhóm bất động sản mặc dù tăng rất mạnh so với cùng kỳ nhưng chỉ tăng 2,2% so với quý trước, mức này thấp hơn xu hướng tăng trưởng của lĩnh vực này trong những năm trước đại dịch.
Các chuyên gia của SSI cũng vừa cảnh báo về một số biến số vĩ mô bắt đầu dấu hiệu kém tích cực hơn và cho thấy nền kinh tế không thể nào đứng ngoài những rủi ro ở bên ngoài.
Chứng khoán SSI cho biết, nếu như loại trừ yếu tố kỹ thuật đó là mức nền thấp trong quý 3/2021 thì tăng trưởng GDP trong quý 3 ước tính đạt mức 6,5% so với cùng kỳ, mức này thấp hơn mức 7,8% và cho thấy tăng trưởng kinh tế có thể đạt đỉnh trong quý 2 hoặc quý 3.
Cũng tương tự, số liệu đã điều chỉnh tính mùa vụ của xuất khẩu và doanh thu bán lẻ hàng hóa cũng như dịch vụ cho thấy mức tăng trưởng cũng đã chậm lại theo quý. Đáng chú ý, xuất khẩu ở trong quý 2 cho thấy triển vọng khó khăn trong thời gian tới đối với hoạt động thương mại. Như thế, tác động tiêu cực của tăng lãi suất và suy giảm tăng trưởng cung tiền sẽ thể hiện được rõ hơn từ quý IV.
Từ quý 4, tác động tiêu cực của tăng lãi suất và suy giảm tăng trưởng cung tiền sẽ thể hiện rõ
Đưa ra nhận định về những rủi ro sắp tới, CEO WiGroup - ông Trần Ngọc Báu cho rằng điểm đáng lo ngại nhất đối với triển vọng kinh tế của Việt Nam là ở độ trễ chính sách và thị trường.
Ông Báu nói rằng: “Các chính sách tiền tệ thường có độ trễ khoảng 2 quý đến 1 năm, có thể lâu hơn trong một số trường hợp. Như vậy những tác động tiêu cực tới nền kinh tế từ việc thắt chặt chính sách tiền tệ trên toàn cầu đến lúc này mới chỉ đang bắt đầu thẩm thấu vào các nền kinh tế".
Cũng theo ông Báu, sự việc Credit Suisse đứng trước nguy cơ mất thanh khoản chính là câu chuyện điển hình cho việc những tác động tiêu cực từ thị trường tài chính đang thẩm thấu rõ ràng hơn vào sức khỏe của nền kinh tế thực.
CEO WiGroup cảnh báo: “Tại Việt Nam những tác động tiêu cực của việc tăng lãi suất và suy giảm tăng trưởng cung tiền đến nền kinh tế trong nước phải từ quý IV trở đi mới thể hiện rõ nét hơn".
Và vấn đề thứ hai mà ông Báu đề cập đến chính là những lo ngại về bất ổn địa chính trị có thể tiếp tục tạo ra những biến động khó lường trong giá cả hàng hóa thiết yếu - đây là thứ mà chúng ta không thể nào phá đoán được tình huống.
Khi nhìn về viễn cảnh tương lai, trong năm 2023, suy giảm tăng trưởng trên toàn cầu là điều không thể tránh khỏi. Ở trong nước, áp lực lạm phát là hiện hữu. Nếu như giá cả hàng hóa tiếp tục ghi nhận đà tăng, kinh tế của chúng ta thực sự sẽ phải đứng trước những bài toán vô cùng khó khăn.
Và trong báo cáo mới nhất, Chứng khoán Agribank (Agriseco) cũng đã nhắc lại việc Fed tăng lãi suất áp lực lên VND cùng các đồng tiền khác.
Cũng theo đó, việc Fed tăng lãi suất cũng đã đẩy giá đồng USD tăng so với VND cùng các đồng tiền khác. Chỉ số DXY cũng thể hiện sức mạnh của đồng USD cũng đang tăng 15% từ đầu năm và vượt đỉnh từ đầu năm 2020.
Còn các đồng tiền EUR và JPY cũng đều đang mất giá so với đồng USD. VND cũng sẽ chịu áp lực mất giá sau 2 năm mà VND lên giá so với USD. Tỷ giá USD?VND cũng dự báo sẽ tiếp tục tăng khi mà Fed có thể tăng lãi suất thêm 2 lần nữa trong những tháng cuối năm.
Các chuyên gia ở đây cũng cảnh báo lãi suất tăng mạnh có thể làm cho thị trường tài chính biến động mạnh. Cũng theo đó, dòng vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán cũng có nguy cơ rút ra khỏi các thị trường mới nổi và tìm đến các kênh an toàn, các khu vực có lãi suất tăng.
Ở quá khứ, khi mà Fed tăng lãi suất như năm 2013, thị trường tài chính các quốc gia mới nổi và đang phát triển chính là biến động lớn với việc tiền nội tệ giảm giá và dòng vốn đầu tư ra ngoài, giá cổ phiếu giảm và thiếu thanh khoản nên họ buộc phải thắt chặt chính sách tiền tệ.
Bên cạnh đó, lãi suất toàn cầu tăng cũng sẽ khiến cho chi phí vay nợ nước ngoài của Chính Phủ tăng cao và gánh nặng trả nợ cũng tăng theo. Đồng thời, lãi suất tăng dẫn đến gia tăng áp lực tài chính của doanh nghiệp, hộ gia đình cũng như cá nhân đã dẫn đến các khoản nợ. Chi phí vay cũng tăng khiến cho vay tiền trở nên đắt đỏ hơn và người dân sẽ chi tiêu ít đi và tiết kiệm hơn.
Agriseco cho biết, ở Việt Nam, mặt bằng lãi suất đang có xu hướng tăng. Lãi suất trái phiếu Chính phủ 10 năm tăng kể từ đầu năm nay và hiện về mức bình quân trước dịch bệnh COVID-19 là năm 2019. Ngân hàng Nhà nước cũng đã quyết định tăng lãi suất điều hành thêm 100 điểm cơ bản sau khi mà Fed tiếp tục chính sách thắt chặt tiền tệ bằng việc tăng lãi suất lên 0,75%. Có nhiều ngân hàng thương mại cũng đã bắt đầu tăng lãi suất huy động và dao động trong khoảng 5,5 – 7,55% với mức tăng từ 0,8% – 1%/năm so với hồi đầu năm.