5 tín hiệu cho thấy toàn cầu đang tiến tới suy thoái kinh tế
BÀI LIÊN QUAN
Chủ tịch EuroCham: Triển vọng kinh tế Việt Nam khá tích cực bất chấp thế giới còn nhiều bất ổnViệt Nam: Điểm sáng hiếm hoi trong bức tranh kinh tế toàn cầu ảm đạmBất động sản có đang trở thành đại diện cho kinh tế Việt Nam?Theo baodauthau.vn, trong tuần qua, tần số xuất hiện của những tín hiệu suy thoái xuất hiện ngày càng nhiều. Công ty nghiên cứu Ned Davis chỉ ra hiện có 98% khả năng suy thoái sẽ diễn ra trên quy mô toàn cầu. Trong lịch sử, chỉ số của dự báo này chỉ cao như vậy vào năm 2008, 2020. Để đưa ra cảnh báo suy thoái kinh tế, các nhà kinh tế thường dựa trên các chỉ số khác nhau. Trong đó có 5 tín hiệu chính.
Một là USD tăng mạnh
Đồng USD đóng một vai trò lớn trong nền kinh tế toàn cầu và tài chính quốc tế. Hiện nay, “đồng bạc xanh” đang mạnh nhất trong hai thập kỷ gần đây, nguyên nhân khiến USD tăng mạnh là do Cục Dự trữ Liên ban Mỹ (Fed) đã tiến hành tăng lãi suất cơ bản kể từ tháng 3 năm nay. Điều này khiến USD trở nên hấp dẫn hơn so với các nhà đầu tư trên toàn thế giới.
USD được coi là nơi an toàn để gửi tiền trong bất kỳ điều kiện kinh tế nào. Đặc biệt trong bối cảnh như hiện nay, tình hình hỗn loạn được gây ra bởi các ảnh hưởng của đại dịch và tình hình chính trị bất ổn ở khu vực Đông Âu càng khiến các nhà đầu tư có nhiều động lực để mua USD và thường mua dưới dạng trái phiếu chính phủ Mỹ.
Việc USD mạnh sẽ mang lại lợi ích cho người Mỹ khi đi du lịch nước ngoài, tuy nhiên nó lại khiến những nơi khác đau đầu.
Tỷ giá đồng Bảng Anh, Euro, Nhân dân tệ, Yên và nhiều đồng tiền khác so với USD đều giảm mạnh. Điều này khiến các quốc gia nhập khẩu hàng hóa thiết yếu như lương thực, thực phẩm, nhiên liệu trở nên đắt đỏ hơn. Để đối phó với tình trạng này, các ngân hàng trung ương đang phải đối mặt với tình trạng lạm phát do đại dịch sẽ phải thực hiện tăng lãi suất để nâng giá trị đồng tiền nội tệ của họ.
Ngay tại Mỹ, sức mạnh của USD cũng tạo ra hiệu ứng bất ổn cho Phố Wall bởi nhiều công ty thuộc nhóm S&P 500 kinh doanh trên khắp thế giới. Morgan Stanley ước tính, mỗi lần chỉ số USD tăng 1% thì thu nhập của S&P 500 giảm 0,5%.
Hai là động lực kinh tế Mỹ có dấu hiệu chững lại
Mua sắm là động lực số một của nền kinh tế lớn nhất thế giới, tuy nhiên chính người dân Mỹ đang cảm thấy mệt mỏi vì lương tăng không kịp theo mức tăng của giá cả. "Khó khăn do lạm phát gây ra khiến người tiêu dùng phải tiêu đến tiền tiết kiệm", Gregory Daco, Nhà kinh tế trưởng của EY Parthenon, cho biết.
Trong tháng 8, tỷ lệ tiết kiệm cá nhân tại Mỹ không có sự thay đổi, duy trì ở mức 3,5%, gần mức thấp nhất kể từ năm 2008 và thấp hơn nhiều so với mức trước thời điểm Covid-19 bùng phát là 9%. Tình trạng này xảy ra được cho là liên quan rất nhiều đến Fed.
Bởi khi lãi suất tiền gửi tăng mạnh khiến lãi suất cho vay thế chấp lên mức cao nhất, làm các doanh nghiệp khó phát triển hơn. Mục tiêu của Fed khi tăng lãi suất là để giảm lạm phát, nhưng điều này lại khiến người tiêu dùng phải chịu “một cổ hai tròng” khi lãi vay cao và giá cả cũng cao, đặc biệt là các sản phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu như thực phẩm và nhà ở.
Trong thời gian phong tỏa năm 2020, người Mỹ đã phải “mở ví chi tiêu” góp phần đưa nền kinh tế thoát khỏi cuộc suy thoái do đại dịch. Kể từ đó, viện trợ của chính phủ đã bốc hơi và lạm phát bén rễ, đẩy giá cả lên với tốc độ nhanh nhất trong 40 năm. Kết quả, người tiêu dùng mất khả năng chi tiêu.
Ba là doanh nghiệp Mỹ phải thắt lưng buộc bụng
Trong phần lớn thời kỳ đại dịch, hoạt động kinh doanh đã bùng nổ trên khắp các ngành mặc dù lạm phát khiến lợi nhuận giảm sút. Đây là nhờ sự kiên trì của người mua sắm Mỹ tuy nhiên điều này không kéo dài lâu.
Giữa tháng 9 vừa qua, gã khổng lồ logistics hoạt động tại hơn 200 quốc gia như FedEx đã gây sốc khi bất ngờ điều chỉnh dự báo kết quả kinh doanh. Đồng thời, doanh nghiệp này cảnh báo nhu cầu đang suy yếu và lợi nhuận của Công ty có thể giảm hơn 40%. Trong một cuộc phỏng vấn, CEO của FedEx nói rằng, sự suy giảm trong hoạt động vận tải là dấu hiệu cho thấy suy thoái kinh tế toàn cầu đang rình rập.
Động thái này không chỉ diễn ra tại FedEx, trong tuần trước cổ phiếu của Apple đã giảm sau khi Bloomberg đưa tin công ty công nghệ hàng đầu thế giới này sẽ hủy bỏ kế hoạch tăng sản lượng iphone 14 do nhu cầu thấp hơn so với dự báo.
Ngoài ra, thời điểm này các nhà tuyển dụng thường tăng cường thu hút nhân lực chuẩn bị cho kỳ nghỉ lễ, nhưng năm nay lại có diễn biến lạ khi hầu hết doanh nghiệp duy trì tâm lý thận trọng hơn.
Julia Pollak, Nhà kinh tế trưởng tại ZipRecruiter cho biết chưa ghi nhận mức tăng tuyển dụng thường thấy trong tháng 9 hàng năm với các công ty cần thêm nhân sự thời vụ. "Các công ty đang trì hoãn và chờ xem những điều kiện thực tế", ông nói.
Bốn là rơi vào “thị trường gấu”
Phố Wall bị ảnh hưởng bởi sự thất thường và các cổ phiếu đang đi đúng như những gì đã diễn ra vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế năm 2008. Tuy nhiên về bản chất của thị trường đang là một câu chuyện khác so với năm 2021.
Vào năm ngoái thị trường chứng khoán Mỹ phát triển mạnh với chỉ số S&P 500 tăng 27% do Fed bơm một lượng tiền mặt thông qua chính sách nới lỏng tiền tệ vào mùa xuân 2020 giúp thị trường tài chính vượt qua đại dịch.
Tình hình khả quan này chỉ kéo dài đến đầu năm 2022 khi lạm phát bắt đầu vượt quá tầm kiểm soát, Fed bắt đầu thực hiện tăng lãi suất và gỡ bỏ cơ chế mua trái phiếu vốn đã hỗ trợ thị trường. Động thái này dẫn tới kết quả S&P 500 giảm gần 24% trong năm. Cả 3 chỉ số chính của chứng khoán Mỹ đều nằm trong thị trường giá xuống, giảm ít nhất 20% so với mức đỉnh gần đây nhất.
Tại thị trường trái phiếu, thường là “hầm trú ẩn” an toàn cho nhà đầu tư khi cổ phiếu và các tài sản khác giảm giá nhưng thị trường này cũng đang gặp khó khăn. Một lần nữa nguyên nhân là do các chính sách của Fed.
Lạm phát mạnh và Fed tăng lãi suất liên tiếp đã đẩy giá trái phiếu xuống, khiến lợi suất trái phiếu (lợi tức mà một nhà đầu tư nhận được khi cho chính phủ vay) tăng. Điều này có thể thấy rõ khi giữa tuần trước, lợi suất trái phiếu Kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm đã nhanh chóng vượt qua 4%, mức cao nhất trong 14 năm qua.
Tại Anh, thị trường trái phiếu của nước này cũng ghi nhận một đợt giảm mạnh do sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương Anh (BOE).
Tại khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) lợi suất trái phiếu cũng tăng đột biến khi các ngân hàng trung ương khu vực này đồng loạt “nối gót” Fed trong việc nâng lãi suất để hỗ trợ đồng tiền nội tệ.
Năm là địa chính trị bất ổn
Anh đang là nơi thấy rõ nhất những sự va chạm của các thảm họa kinh tế, tài chính và chính trị rõ nét nhất thế giới hiện nay. Quốc gia này vừa phải vật lộn với giá cả tăng vọt từ những ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, vừa phải chứng kiến sự gián đoạn thương mại do xung đột tại Ukraine. Phương Tây cắt giảm nhập khẩu khí đốt tự nhiên từ Nga khiến giá năng lượng tăng vọt và nguồn cung cấp giảm dần.
Chưa dừng lại ở đó, chỉ hơn một tuần trước, chính phủ mới của Thủ tướng Anh Liz Truss đã công bố kế hoạch cắt giảm thuế lớn nhất 50 năm. Theo đó, Chính quyền Truss muốn giảm thuế với tất cả người Anh để khuyến khích chi tiêu và đầu tư, đồng thời nhằm giảm tác động của suy thoái. Nhưng vấn đề ở chỗ không có nguồn thu bổ sung kế hoạch này, nghĩa là chính phủ phải gánh thêm nợ. Kế hoạch này vấp phải sự chỉ trích của các nhà kinh tế bởi nó được đưa ra giữa lúc lạm phát ở Anh đang chạm ngưỡng kỷ lục.
Quyết định này đã gây ra một sự hoảng loạn trên thị trường tài chính và Phố Downing. Các nhà đầu tư trên toàn cầu bán tháo hàng loạt trái phiếu của Anh khiến đồng Bảng xuống mức thấp nhất so với USD trong gần 230 năm.
Tình thế này khiến Ngân hàng Trung ương Anh buộc phải can thiệp khẩn cấp bằng cách thu mua lại trái phiếu trong vòng hơn 2 tuần. Mặc dù tình hình đã ổn định hơn nhưng tác động của cuộc hỗn loạn Trussonomics (chính sách kinh tế của bà Truss) vẫn đang lan rộng, vấn đề cốt lõi chưa được giải quyết.
Hiện Anh đang phải vật lộn trong cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt với lạm phát 10%, đây là mức cao nhất so với bất kỳ nền kinh tế G7 nào, bất an trước chi phí đi vay cao hơn. Việc lãi suất mới khiến hàng triệu khoản thanh toán nợ thế chấp hàng tháng của người mua hàng tăng thêm hàng trăm hoặc thậm chí hàng nghìn bảng mỗi tháng.
Có thể thấy, chưa có sự chắc chắn nào khẳng định suy thoái toàn cầu có thể xảy ra vào năm 2023, đồng thời cũng không thể dự đoán được mức độ nghiêm trọng và thời gian suy thoái kéo dài trong bao lâu. Tuy nhiên, cuộc suy thoái kinh tế nào cũng tác động lớn tới nền kinh tế toàn cầu.
Đối với một số nền kinh tế lớn như Mỹ, có thị trường lao động mạnh mẽ và người tiêu dùng kiên cường nên sẽ có khả năng chịu đòn tốt hơn những nền kinh tế khác
"Chúng ta đang ở trong vùng biển chưa được thăm dò trong những tháng tới", các nhà kinh tế tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), nhận định trong một báo cáo tuần trước.
Theo WEF, tương lai trước mắt với nền kinh tế toàn cầu và với phần lớn dân số thế giới là "tối tăm". Mặc dù vậy, các chuyên gia cho rằng, chính khủng hoảng cuối cùng có thể cải thiện mức sống và làm cho nền kinh tế mạnh lên.
"Doanh nghiệp phải thay đổi. Đây là câu chuyện kể từ khi đại dịch bắt đầu. Các doanh nghiệp không còn có thể tiếp tục đi theo con đường cũ. Đó là cơ hội, là trong nguy có cơ", Rima Bhatia, Cố vấn kinh tế của Ngân hàng Quốc tế Vùng Vịnh, nhận xét.