Đồng USD siêu mạnh và 'cơn khát' mua sắm đang là nguyên nhân khiến Mỹ xuất khẩu lạm phát ra thế giới
BÀI LIÊN QUAN
USD "chợ đen" tăng sát mốc 24.700 đồng, người tìm mua Euro lại tăng mạnhĐồng USD tăng và nỗi lo của các Ngân hàng Trung ươngLùm xùm thương vụ mua lại Twitter, tài sản của Elon Musk “bay” 37 tỷ USDTheo Nhịp sống kinh tế, trong nhiều thập kỷ những hộ gia đình Mỹ đã trở thành "vị cứu tinh" cho nền kinh tế toàn cầu khi người tiêu dùng là "lựa chọn cuối cùng" để có thể thúc đẩy được sự tăng trưởng. Mặc dù vậy, sức mua sắm của người dân Mỹ thời gian gần đây đã ghi nhận sự giảm sút.
Bị mặc kẹt ở trong nhà suốt một thời gian dài do đại dịch, người tiêu dùng trên khắp thế giới đã mua sắm nhiều hơn đối với những mặt hàng như TV, laptop, và xe đạp để tập thể dục. Bên cạnh đó, họ còn hạn chế chi tiêu cho những dịch vụ như đặt phòng khách sạn hoặc thẻ tập gym. Sự thay đổi trong lối chi tiêu này thậm chí còn rõ ràng hơn ở Mỹ khi so với những nước phát triển khác.
Sự thay đổi lớn của nền kinh tế tòan cầu
Để có thể đáp ứng được những cơn khát mua sắm, những hãng bán lẻ lớn như Target và Walmart đã tăng thêm lượng hàng tồn kho lên mức thậm chí còn cao hơn nhiều khi so với nhu cầu của người dân Mỹ. Hơn thế nữa, do những loại hàng hóa này cũng đã được xuất khẩu ra toàn cầu vậy nên nhu cầu tiêu dùng của người Mỹ cũng đã đẩy mức giá ở nhiều nước khác lên mức cao hơn.
Thực tế cho thấy Mỹ đã xuất khẩu lạm phát ra thế giới trong thời kỳ hồi phục hậu đại dịch. Điều này đã nhấn mạnh được sự thay đổi sâu sắc của nền kinh tế toàn cầu. Tại thời điểm trước khi đại dịch Covid-19 bùng phát trên toàn cầu, số lượng hàng hóa luôn trong trạng thái dồi dào và việc tìm người mua là một thử thách lớn.
Những quốc gia như Đức và Trung Quốc có thặng dư thương mại khá lớn, thường bị cho là "những kẻ" hưởng lợi từ nhu cầu từ nhiều khu vực khác. Trong khi đó, họ lại là những quốc gia có ít đóng góp nhất để mở rộng nhu cầu cho những nước khác.
Tới khi mọi thứ trở nên khan hàng hơn thì câu chuyện lại trở thành mối quan tâm hàng đầu. Giáo sư kinh tế Đại học Harvard, Jason Furman cho biết rằng: "Mọi thứ hiện đang diễn ra ngược lại. Nhu cầu trong thời gian trước đây là quá thấp. Hiện tại, nguồn cung lại vô cùng thiếu hụt. Trong bối cảnh nguồn cung trở nên khan hiếm hơn thì Mỹ lại đang tạo ra những nhu cầu và theo đó xuất khẩu chính vấn đề của họ - lạm phát".
Mặt khác, người tiêu dùng Mỹ đang có dấu hiệu giảm chi tiêu khi Fed nâng thêm lãi suất để có thể hạ nhiệt được nền kinh tế và đối phó được với lạm phát. Đối với phần còn lại của thế giới, điều này sẽ tạo nên một "cơn đau đầu" khác khi Mỹ cùng với tất cả những mặt hàng khác đó là: Đồng USD siêu mạnh.
Khi lãi suất tăng mạnh tại Mỹ khi so với khu vực đồng euro và Nhật Bản, thì đồng USD đã tăng giá mạnh. Trong tuần trước, tỷ giá EUR/USD rơi xuống mức thấp nhất tính từ năm 2002. Theo đó thì hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ cùng với mọi mặt hàng thường được định giá bằng USD (đặc biệt là dầu) đang vô cùng đắt đỏ hơn đối với những nước khác.
Furman cho biết rằng: "Nhu cầu tại Mỹ sụt giảm đi nhưng yếu tố thúc đẩy nên điều đó cũng là nguyên nhân khiến đồng USD tăng mạnh lên hơn, sức mua đi xuống cũng đã không thể giải quyết được vấn đề lạm phát mà Mỹ đã xuất khẩu sang nhiều nước khác".
Đúng vậy, nhu cầu tiêu dùng là một nguyên nhân khiến lạm phát tăng mạnh hơn trên toàn thế giới nhưng không phải là Mỹ. Tại châu Âu và những nơi khác, chi phí năng lượng và thực phẩm hiện đang đẩy giá tiêu dùng lên cao hơn, khi mâu thuẫn giữa Nga và Ukraine càng căng thẳng khiến cho những nút thắt của chuỗi cung ứng khó có thể tháo gỡ.
Mặc dù vậy, theo nhà kinh tế trưởng của Berenberg Bank tại London - Holger Schimieding, một phần lạm phát của châu Âu đã được "nhập khẩu" thông qua Đại Tây Dương. Ông nói rằng: "Thực tế thì không phải mọi loại hàng hóa mua từ Mỹ mới có giá tăng cao. Mặc dù vậy thì việc nhu cầu tại Mỹ tăng cao hơn sau những đợt chính phủ tăng những gói kích thích cũng phần nào gây ra thêm tình trạng tắc nghẽn nguồn cung trên toàn thế giới, từ đó đẩy giá tăng lên cao hơn".
Ngân hàng trung ương châu Âu "tiến thoái lưỡng nan"
Kể từ khi đại dịch kèm lạm phát diễn ra trong năm ngoái, Mỹ đã phải chịu những tác động lớn hơn châu Âu. Hiện nay, hai nền kinh tế này có thể có tỷ lệ lạm phát tương đương nhưng là hai kiểu khác nhau và có tác động đến quyết định điều chỉnh chính sách của những ngân hàng trung ương (NHTW). Phần lớn sự khác biệt nằm ở diễn biến áp lực giá tại quốc giá đó có mức độ ra sao.
Ở Mỹ, nhu cầu của những hộ gia đình tăng cao và chủ yếu đối với hàng hóa cũng đã trở thành yếu tố có vai trò lớn. Ana Luis Andrade - chuyên gia của Bloomberg Economics, nhận định rằng: "Đây là một loại lạm phát không tự nhiên biến mất". Và đây cũng được coi là lý do khiến Fed dự kiến nâng thêm lãi suất cao hơn so với ECB.
Nhưng nếu chi tiêu của người tiêu dùng Mỹ đang thúc đẩy thêm tỷ lệ lạm phát thì đây lại là điều mà Fed có thể khắc phục được. Chính sách tiền tệ được coi là một công cụ có sức mạnh để có thể kiểm soát được giá cả, bằng cách hạ nhiệt nhu cầu trong nước. Khi lạm phát bị tác động bởi bên ngoài, như ở châu Âu thì việc ECB tăng thêm lãi suất cao hơn sẽ có nguy cơ làm chậm đi nền kinh tế, trong khi không giải quyết được nguyên nhân gây lạm phát.
Luca Fornarno là giảng viên Trường Kinh tế Barcelona và là đồng tác giả của bài báo gần đây nói về mối liên hệ giũa hoạt động mua hàng hóa trong thời kỳ Covid, cán cân thương mại và lạm phát toàn cầu. Ông cho biết rằng: "Nhu cầu của người tiêu dùng gây thêm sự khó khăn cho Fed".
Ông cho rằng: "Rõ ràng rằng Fed nên tăng thêm lãi suất dù cho động thái này sẽ khiến hoạt động kinh tế giảm tốc nhưng vì sụt giảm ở mức cao cho nên mức độ ảnh hưởng không quá lớn. Tại eurozone, chúng tôi lại nhận thấy những điều tồi tệ hơn. Lạm phát cao hơn dường như đòi hỏi NHTW phải thắt chặt thêm chính sách, trong khi một nền kinh tế tăng trưởng là không đủ mạnh để có thể hạ nhiệt".
Khi những nhu cầu của người dân Mỹ suy giảm thì áp lực đối với chuỗi cung ứng cũng vậy và từ đó tình hình tại châu Âu cũng phần nào đó giảm bớt đi sự căng thẳng.
Ông Schimieding cho biết rằng: "Hầu như nguyên nhân gây nên lạm phát chính là giá năng lượng, hàng hóa và thực phẩm nhưng nhu cầu của Mỹ có thể giúp ích thêm một chút. Việc nhu cầu hạ nhiệt có thể sẽ giúp cho nạn lạm phát tại châu Âu giảm đi khoảng 0,5 điểm phần trăm trong 12 tới 18 tháng".
Liệu Mỹ có đang là người chiến thắng?
Một yếu tố khác khiến châu Âu đang chật vật chính là đồng USD tăng mạnh lên, những đồng tiền tệ như euro và yen Nhật hiện đang giao dịch ở mức thấp nhất trong nhiều thập kỷ vừa qua. Từ đó, hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ sẽ rẻ hơn và giúp giảm đi những áp lực lạm phát, trong khi tình hình sẽ ngược lại ở những nơi khác.
Luca Fornarno đã ví tình huống hiện tại giống như một cuộc chiến tiền tệ ngược. Thay vì hạ giá đi đồng nội tệ để có thể thúc đẩy xuất khẩu như một số quốc gia thực hiện trước khi đại dịch diễn ra, thì hiện tại "điều mà mỗi một nền kinh tế muốn làm chính là thúc đẩy nên đồng nội tệ tăng giá, giảm đi thâm hụt thương mại và giúp kìm hãm được lạm phát".
Rõ ràng đó là khi mỹ giành chiến thắng được trong cuộc cạnh tranh này, cũng như châu Âu và châu Á đang ở trong tình thế dễ bị tổn thất nghiêm trọng. Ví dụ như trong tuần trước, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã cảnh báo giới chức nước này phải chú ý tới việc ngăn chặn "nhập khẩu lạm phát".
Trưởng bộ phận nghiên cứu thị trường toàn cầu tại Nomura, Rob Subbaraman cho biết rằng việc những NHTW không thể tăng thêm lãi suất để có thể bắt kịp cùng với tốc độ mà Fed cũng có thể khiến cho tác động lạm phát từ việc đồng USD tăng giá trở nền trầm trọng hơn.
Ông chia sẻ rằng những rủi ro tại đây chính là sự chênh lệch lãi suất ngày càng lớn và điều này dẫn tới hệ quả là "dòng vốn bị rút ra và đồng tiền giảm giá mạnh hơn so với đồng USD, qua đó tạo ra thêm nhiều áp lực lạm phát".