Đề xuất xây dựng “Chiến lược phát triển ngành thép” nhằm thúc đẩy năng lực thép trong nước
BÀI LIÊN QUAN
"Vua thép" Trần Đình Long khẳng định vị thế Tập đoàn trong khu vực: Doanh thu xuất khẩu đạt 33%, nắm giữ hơn 2 tỷ USD tiền mặtCEO Võ Tiến Đạt: Bản lĩnh thép của người thuyền trưởng dẫn dắt Ecoba Việt Nam sải cánh vươn caoDoanh nhân Lê Phước Vũ: Từng bươn chải đủ mọi nghề để kiếm sống đến danh xưng “ông trùm” ngành tôn thép tại Việt NamNguồn cung thép chưa đáp ứng nền kinh tế
Theo VnExpress, báo cáo của Bộ Công Thương cho biết, trong giai đoạn 2016 - 2021 ngành thép đã có tốc độ phát triển nhanh và mạnh mẽ về năng lực cũng như công nghệ. Tuy nhiên lại có sự mất cân đối giữa thượng nguồn và hạ nguồn.
Cụ thể, tính đến năm 2021, năng lực sản xuất phôi thép của các doanh nghiệp trong nước là 27 triệu tấn/năm, đối với thép cuộn cán nóng (HRC) thì là 7 - 8 triệu tấn/năm.
Năng lực sản xuất thép xây dựng trong nước khoảng 14 triệu tấn. Số lượng này được đánh giá đáp ứng 100% nhu cầu cho tiêu dùng trong nước, đồng thời có thể xuất khẩu một phần. Tuy nhiên, 42% trong đó được sản xuất từ phế liệu thép nhập khẩu, 58% còn lại sản xuất từ lò cao, sử dụng nguyên liệu là quặng sắt.
Đối với thép phục vụ ngành cơ khí, chế tạo, nước ta cũng đã sản xuất và đáp ứng được một phần thép HRC, tương đương khoảng 8 triệu tấn/năm. Còn đối với các loại thép hợp kim, Việt Nam chưa sản xuất được các loại thép đặc biệt.
Hiện tại, Việt Nam có những nhà máy sản xuất thép với công suất lớn như Khu liên hợp Gang thép Hưng Nghiệp Formosa, Khu liên hợp Gang thép Hòa Phát Dung Quất, thép Nghi Sơn,.. tuy nhiên còn tồn tại số lượng lớn nhà máy sản xuất phôi thép công suất nhỏ, thiết bị lạc hậu, hạn chế về năng lực sản xuất thép, tiêu tốn năng lượng và nguy cơ về môi trường. Các sản phẩm thép sản xuất trong nước chưa thể cung cấp đủ nhu cầu thép cho toàn bộ nền kinh tế.
Trong báo cáo của Bộ Công Thương còn cho thấy, năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam còn khá thấp. Bởi phần lớn các nguyên liệu đầu vào để sản xuất thép đến từ nguồn nhập khẩu từ nước ngoài như quặng sắt, than mỡ luyện cốc, thép phế liệu, điện cực graphite.
Trong năm 2022, dự kiến Việt Nam phải nhập khẩu nhiều loại nguyên liệu để sản xuất thép như: khoảng hơn 18 triệu tấn quặng sắt cho các lò cao, khoảng 6-6,5 triệu tấn thép phế cho các lò điện, khoảng 6,5 triệu tấn than mỡ luyện cốc và khoảng 10.000 tấn điện cực graphite…Do đó khi giá nguyên liệu đầu vào biến động sẽ khiến giá thép thành phẩm trong nước cũng phải điều chỉnh theo giá thị trường thế giới. Hiện nay giá quặng sắt, thép phế, quặng nguyên liệu thô và than mỡ luyện cốc… vẫn duy trì ở mức cao đã khiến giá thép thành phẩm trong nước tăng đột biến.
Mất cân đối giữa thượng nguồn và hạ nguồn
Trong giai đoạn 2016 - 2021, Bộ Công Thương cho rằng sự phát triển của ngành công nghiệp thép trong nước có sự mất cân đối giữa thượng nguồn và hạ nguồn. Bởi các sản phẩm sau thép như tôn mạ kẽm, thép ống tăng trưởng tốt về giá trị sản xuất và xuất khẩu. Còn các chủng loại thép hợp kim, đặc biệt là HRC – nguyên liệu đầu vào cần thiết cho nhiều ngành như sản xuất thép cán nguội (CRC), ống thép, tôn mạ, cơ khí chế tạo, đóng tàu có nhu cầu lớn, nhưng năng lực sản xuất các sản phẩm thép này trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Khiến Việt Nam phải nhập khẩu các loại thép này với số lượng lớn.
Do đó, trong thời gian tới, để đảm bảo nhu cầu thép cuộn cán nóng HRC và các loại thép hợp kim, thép chất lượng cao trong nước cần tiếp tục thu hút và đầu tư một số Nhà máy liên hợp sản xuất thép lớn để phục vụ nhu cầu nội địa, giảm dần sự phụ thuộc vào thép nhập khẩu.
Bên cạnh đó, theo Luật Quy hoạch 2017 quy hoạch ngành thép đã được bãi bỏ. Theo quy định Luật Giá 2012, thép cũng được đưa ra khỏi danh mục hàng hoá kiểm soát. Điều này khiến Nhà nước không có công cụ, khó đảm bảo quản lý cũng như không kiểm soát được năng lực sản xuất, cân đối cán cân cung - cầu đối với các sản phẩm thép trong nước.
Đề xuất cơ chế đặc thù phát triển ngành thép
Theo Bộ Công Thương, trong bối cảnh tổng thể phát triển công nghiệp chế biến chế tạo, ngành thép có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; là ngành công nghiệp nền tảng, vật liệu đầu vào cho các ngành sản xuất, chế tạo (cơ khí, đóng tàu, sản xuất ôtô xe máy, công nghiệp quốc phòng, khai khoáng, điện...) góp phần tạo nguồn cung ứng ổn định và nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động của các ngành công nghiệp.
Dự báo, từ nay đến năm 2030, tổng nhu cầu thị trường các ngành chế tạo của Việt Nam có thể đạt tới 310 tỷ USD. Trong đó, nhu cầu thị trường từ cơ khí phục vụ công trình công nghiệp là 120 tỷ USD; cơ khí phục vụ xây dựng, nông nghiệp, chế biến là 15 tỷ USD; thiết bị tiêu chuẩn là 10 tỷ USD; giao thông đường sắt là 35 tỷ USD; tàu điện ngầm là 10 tỷ USD và ô tô là 120 tỷ USD.
Đây sẽ là cơ hội rất lớn cho ngành thép trong nước. Đặc biệt là đối với các loại thép chế tạo, thép hợp kim chất lượng cao nhằm phục vụ các ngành công nghiệp chế tạo. Hiện nay, nước ta vẫn chưa tự chủ sản xuất được phân khúc thép này trong nước.
Có thể thấy, vai trò quan trọng của ngành thép đối với nền kinh tế của Việt Nam tuy nhiên Bộ Công Thương cho rằng hiện nay không có chính sách đặc thù và riêng biệt để thúc đẩy và định hướng phát triển ngành thép trong nước.
“Tự chủ về sản xuất thép trong nước là yêu cầu tất yếu của việc tự chủ nguồn nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, tiêu dùng của người dân, cũng như quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa cơ sở vật chất quốc gia. Do đó, để ngành thép phát triển bền vững và ổn định, Nhà nước cần phải xây dựng chính sách đủ mạnh để thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp thép tạo nền tảng cơ bản cho công nghiệp hóa theo hướng hiện đại và bền vững”, báo cáo của Bộ Công Thương nêu rõ.
Để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần có các định hướng chính sách để phát triển mạnh ngành luyện kim, vật liệu trong nước, đặc biệt là các loại thép chế biến chế tạo.
Báo cáo của Bộ Công Thương nêu: "Sản xuất thép trong nước phải đảm bảo tính chủ động, đa dạng chủng loại, như thép xây dựng, thép cán nguội, thép mạ kim loại... Chỉ nhập khẩu một số chủng loại trong nước chưa sản xuất được như thép hợp kim, chất lượng cao phục vụ công nghệ chế tạo, đóng tàu".
Theo đề xuất của Bộ Công Thương đối với chủng loại HRC, trong giai đoạn tới cần phát triển đầu tư thêm các dự án sản xuất lớn. Vì đây là loại thép chiếm tỷ trọng lớn trong ngành chế biến chế tạo của nước ta.
Đối với thép hợp kim và đặc biệt phục vụ cho ngành cơ khí, Việt Nam cần xây dựng các tổ hợp luyện kim có quy mô lớn. Trong đó, tập trung vào sản xuất các loại thép chế biến chế tạo có trình độ công nghệ có dung lượng thị trường lớn để bước đầu làm chủ công nghệ sản xuất các loại thép chế biến chế tạo cơ bản.
Trong báo cáo Bộ Công Thương cũng cho biết, vùng Duyên Hải miền Trung, nơi có nhiều cảng nước sâu, nguồn năng lượng tái tạo dồi dào, để tiêu thụ năng lượng tại chỗ và quỹ đất còn nhiều là khu vực thích hợp phát triển các dự án thép lớn. Bên cạnh đó, còn có vùng Đồng bằng sông Hồng, nơi tập trung đông dân cư, hạ tầng giao thông đường biển, đường bộ, đường sắt phát triển dù quỹ đất hạn chế nhưng lại có nhu cầu tiêu thụ lớn về thép.
Trong quá trình xây dựng “Chiến lược phát triển ngành thép”, các nhà máy sản xuất thép công nghệ cũ, lạc hậu sẽ được Bộ Công Thương xác định lộ trình xử lý, đề xuất các chính sách cụ thể khuyến khích nhà đầu tư chuyển đổi sang công nghiệp sản xuất thép hiện đại, thân thiện môi trường.