Chuyên gia Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tiết lộ cách để các quốc gia đối phó với đà tăng phi mã của đồng USD
BÀI LIÊN QUAN
Uber tham vọng thu 1 tỷ USD/năm với lĩnh vực quảng cáoDự kiến tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2022 đạt mức cao của thế giới“Vua hàng hiệu” Johnathan Hạnh Nguyễn cùng những giấc mơ lớn vươn tầm thế giớiTheo VnEconomy, mới đây, trong một bài viết blog, bà Gita Gopinath - Phó giám đốc điều hành thứ nhất của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cùng ông Pierre-Olivier Gourinchas - cố vấn kinh tế kiêm Giám đốc nghiên cứu của IMF đã cho rằng, phản ứng chính sách của các quốc qua đối với áp lực mất giá của đồng nội tệ, trong bối cảnh đồng USD tăng chóng mặt nên tập trung vào các nguyên nhân chính dẫn đến diễn biến tỷ giá và các dấu hiệu cho thấy sự gián đoạn trên thị trường.
Trong bài viết nhấn mạnh rằng, tỷ giá đồng USD đang ở ngưỡng cao nhất kể từ năm 2000 cho đến nay và đã tăng 22% so với đồng yên Nhật, 13% so với đồng Euro và 6% so với đồng tiền của các nền kinh tế mới nổi kể từ đầu năm đến nay. Sự tăng giá mạnh mẽ của đồng USD chỉ trong vài tháng đã gây ra tác động kinh tế vĩ mô lớn đối với gần như tất cả các quốc gia, xét đến vai trò thống trị của đồng bạch xanh trong thương mại và tài chính quốc tế.
Mặc dù tỷ trọng của Mỹ trong xuất khẩu hàng hóa thế giới đã giảm từ 12% xuống còn 8% kể từ năm 2000 đến nay, nhưng tỷ trọng của đồng USD trong xuất khẩu thế giới vẫn giữ nguyên ở mức khoảng 40%. Đối với những quốc gia đang chiến đấu với lạm phát, sự suy yếu của đồng nội tệ so với đồng USD đã khiến cuộc chiến càng trở nên khó khăn hơn. Tính bình quân, cứ 10% tăng thêm trong tỷ giá của đồng USD sẽ khiến lạm phát tăng thêm 1 điểm phần trăm. Sức ép này đặc biệt rõ rệt ở các nền kinh tế mới nổi, cũng như phải ánh mức độ phụ thuộc cao của các quốc gia này vào nhập khẩu và tỷ trọng lớn hơn của hàng hóa nhập khẩu được thanh toán bằng đồng USD nếu so với các nền kinh tế phát triển.
Bên cạnh đó, sự gia tăng của đồng USD cũng gây ra biến động trong bảng cân đối kế toán tại khắp nơi trên thế giới. Khoảng một nửa khoản vay xuyên biến giới và trái phiếu quốc tế được tính bằng đồng USD. Theo đó, Chính phủ các nền kinh tế mới nổi đã đạt tiến độ trong việc phát hành nợ bằng đồng nội tệ, tuy nhiên khu vực doanh nghiệp tư nhân của các quốc gia này vẫn có mức nợ USD cao. Khi lãi suất trên toàn thế giới tăng lên, các điều kiện tài chính cũng sẽ thắt chặt đáng kể đối với nhiều quốc gia. Việc đồng bạc xanh tăng giá càng khiến những áp lực này thêm phần trầm trọng, nhất là với một số nền kinh tế mới nổi và các quốc gia thu nhập thấp vốn đang đối mặt với rủi ro cao sẽ rơi vào tình trạng căng thẳng nợ.
Can thiệp tỷ giá chỉ nên coi là biện pháp tạm thời
Bài viết đặt ra câu hỏi: Trong những tình huống như vậy, liệu các quốc gia có nên tích cực hỗ trợ tỷ giá đồng nội tệ không?. Trên thực tế, một số quốc gia đang tiến hành rút dự trữ ngoại hối để can thiệp vào thị trường tiền tệ. Tổng dự trữ ngoại hối của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển đã giảm hơn 6% trong 7 tháng đầu năm 2022.
Hai chuyên gia của IMF cho rằng, phản ứng chính sách phù hợp với áp lực mất giá đồng tiền cần tập trung vào những yếu tố gây biến động tỷ giá cùng những dấu hiệu của sự gián đoạn trên thị trường. Đặc biệt là việc can thiệp thị trường ngoại hối không thể được coi là biện pháp thay thế cho việc điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô mà việc can thiệp chỉ có vai trò tạm thời khi biến động tỷ giá làm gia tăng mạnh rủi ro tài chính hoặc gây gián đoạn nghiêm trọng khả năng của ngân hàng trung ương trong việc duy trì ổn định giá cả.
Với thời điểm hiện tại, các yếu tố kinh tế nền tảng vẫn đang là nhân tố chính trong sự gia tăng của đồng bạc xanh như: lãi suất tăng nhanh ở Mỹ và tỷ lệ trao đổi (terms of trade) - một thước đo về giá xuất khẩu của một quốc gia so với giá nhập khẩu của quốc gia đó - đang có lợi hơn cho Mỹ, như một hệ quả của cuộc khủng hoảng năng lượng.
Có thể thấy, để chống lại đà tăng lịch sử của lạm phát tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã phải triển khai một chiến dịch tăng lãi suất nhanh và mạnh. Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đang phải đối mặt với mức lạm phát cao ngất ngưởng, cũng đã phát đi tín hiệu tăng lãi suất chậm hơn vì lo ngại cuộc khủng hoảng năng lượng có thể sẽ gây ra suy thoái kinh tế. Trong khi đó, lạm phát thấp tại Trung Quốc và Nhật Bản đã cho phép ngân hàng trung ương các nước này đi ngược lại xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ trên toàn cầu.
Bên cạnh đó, cú sốc lớn về tỷ lệ trao đổi gây ra bởi cuộc chiến tranh giữa Nga và Ukraine cũng là nhân tố quan trọng thứ 2 phía sau đà tăng giá "không có gì cản nổi" của đồng USD. Như đã thấy, châu Âu có mức độ phụ thuộc lớn vào năng lượng nhập khẩu, đặc biệt là khí đốt tự nhiên từ Nga. Việc giá khí đốt tăng vọt đã khiến tỷ lệ trao đổi của khối sử dụng đồng tiền chung châu Âu Eurozone giảm xuống mức thấp nhất trong lịch sử.
Theo bài viết của hai vị chuyên gia IMF, xét tới vai trò quan trọng của các yếu tố nền tảng trên là cho phép tỷ giá hối đoái tự điều chỉnh, kết hợp với việc sử dụng chính sách tiền tệ để giữ lạm phát ở mức gần mục tiêu. Việc giá hàng hóa nhập khẩu tăng sẽ giúp mang đến sự điều chỉnh cần thiết với các cú sốc về yếu tố kinh tế nền tảng, bởi nó khiến cho nhập khẩu giảm xuống, qua đó giúp kiềm chế sự tăng thêm của nợ nước ngoài.
Nên bảo toàn dự trữ ngoại hối
Đồng thời cũng cần có thêm các biện pháp bổ sung để giải quyết một số rủi ro mất giá đồng tiền trong tương lai. Thị trường tài chính có thể xuất hiện những biến động lớn hơn, chẳng hạn như một đợt sụt giảm đột ngột trong mức độ yêu thích của nhà đầu tư đối với tài sản ở các thị trường mới nổi, dẫn đến việc dòng vốn chảy khỏi các nền kinh tế này khi mà nhà đầu tư chuyển vốn sang các tài sản an toàn khác.
Theo hai vị chuyên gia, điều nên làm trong môi trường này là tăng cường sự vững vàng. Mặc dù ngân hàng trung ương của các nền kinh tế mới nổi đã tích trữ đồng USD trong những năm gần đây, sau khi đã học được bài học từ các cuộc khủng hoảng trước kia, nhưng dự trữ này cũng chỉ ở mức độ hạn chế và nên được sử dụng một cách khôn ngoan.
Theo đó, các quốc gia nên bảo toàn dự trữ ngoại hối để ứng phó với những tình huống xấu hơn như sự thoái vốn hay biến động thị trường mạnh hơn trong tương lai. Những quốc gia có chính sách kinh tế tốt, nếu muốn giải quyết các điểm yếu vừa phải nên tích cực dựa vào các cơ chế cấp vốn phòng ngừa của IMF để có thể đáp ứng các nhu cầu về thanh khoản trong tương lai. Còn với những nước có nợ ngoại tệ lớn nên giảm bớt những mất cân xứng trong tiền tệ bằng cách sử dụng các chính sách quản lý do vốn và chính sách vĩ mô khôn ngoan, bên cạnh đó cần quản lý nợ để đảm bảo các đợt thanh toán nợ được diễn ra trơn tru.
Bên cạnh các yếu tố nền tảng, trong thời điểm thị trường tài chính trở nên thắt chặt, một số nước lại đang chứng kiến những dấu hiệu của sự đảo lộn trên thị trường như chênh lệch phòng hộ tiền tệ hay chênh lệch lãi suất gia tăng khi phát hành nợ bằng nội tệ. Những gián đoạn nghiêm trọng trên thị trường tiền tệ không có độ sâu lớn có thể dẫn đến những thay đổi lớn trong các chênh lệch đó, thậm chí gây ra bất ổn kinh tế vĩ mô và tài chính.
Trong những trường hợp này thì sự can thiệp tạm thời vào thị trường ngoại hối có thể sẽ phù hợp. Tuy nhiên, việc này cũng có thể giúp ngăn chặn sự khuyến đại nghiêm trọng của các tác động tài chính trong trường hợp đồng tiền mất giá nhanh làm gia tăng rủi ro bất ổn tài chính, chẳng hạn như doanh nghiệp vỡ nợ do mất cân đối tiền tệ. Sau cùng, việc can thiệp tạm thời cũng có thể hỗ trợ chính sách tiền tệ trong một số trường hợp hiếm hoi khi sự mất giá mạnh của đồng nội tệ có khả năng khiến cho các kỳ vọng lạm phát trở nên mất kiểm soát, khi đó chỉ riêng chính sách tiền tệ là không đủ để lập lại ổn định giá cả.
Mỹ nên duy trì thắt chặt chính sách tiền tệ
Đối với Mỹ, mặc cho những biến động toàn cầu từ việc đồng USD mạnh lên hay các điều kiện tài chính thắt chặt lại trên toàn cầu, chính sách tiền tệ thắt chặt vẫn là con đường phù hợp bởi lạm phát của Mỹ vẫn ở mức cao hơn nhiều so với mục tiêu. Nếu Fed không làm vậy thì uy tín sẽ bị sứt mẻ, kỳ vọng lạm phát cũng sẽ không thể kiểm soát được, dẫn đến sự cần thiết phải thắt chặt mạnh hơn nữa về sau, đồng nghĩa với việc phần còn lại của thế giới sẽ phải chịu ảnh hưởng lớn hơn nữa.
Tuy nhiên, theo hai chuyên gia của IMF, Cục Dự trữ Liên bang cũng cần lưu ý rằng những tác động lớn đối với thế giới cũng có thể quay ngược trở lại với nền kinh tế hàng đầu thế giới này. Ngoài ra, với vai trò là nhà cung cấp toàn cầu của tài sản an toàn nhất thế giới, Mỹ có thể sẽ khởi động lại các thỏa thuận hoán đổi tiền tệ với những quốc gia đủ tiêu chuẩn, như đã làm ở thời gian đầu của đại dịch, nhằm cung cấp một van an toàn quan trọng trong thời điểm thị trường tiền tệ phải đương đầu với sức ép lớn. Việc này bổ sung hữu ích cho nguồn vốn USD cung cấp bởi cơ chế Foreign and International Monetary Authorities Repo Facility mà Fed đang thực thi.