Năng lực hành vi là gì? Một số lưu ý quy định về năng lực hành vi
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta sẽ thường xuyên phải thực hiện các giao dịch mua bán, trao đổi,... Nhưng mọi người vẫn thường nghĩ đó chỉ là những giao dịch bình thường cho đến khi xảy ra vấn đề, sự cố ngoài ý muốn thì mới biết được mỗi giao dịch đó đều phải dựa trên năng lực hành vi của bản thân và đối phương làm cơ sở cho luật pháp xét xử nếu xảy ra trường hợp ngoài ý muốn.
1. Năng lực hành vi là gì?
Tại Điều 19 của Bộ Luật Dân sự 2015 có đưa ra khái niệm về năng lực hành vi dân sự của cá nhân như sau:
“Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Qua quy định này có thể hiểu theo một cách đơn giản khả năng thực hiện một việc gì đó của các cá nhân hay tổ chức đều do pháp luật quy định, thông qua các hành vi của mình họ sẽ thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý đã được pháp luật quy định và đủ khả năng để tự chịu trách nhiệm về những hành vi mà mình thực hiện. Năng lực hành vi của một tổ chức xuất hiện vào thời điểm tổ chức đó có quyết định thành lập hoặc thừa nhận từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Năng lực pháp luật xuất hiện sớm hơn năng lực hành vi của các cá nhân. Nói chung năng lực pháp luật xuất hiện từ khi con người ra đời nhưng năng lực hành vi của con người lại chỉ xuất hiện khi con người đạt tới độ tuổi nhất định làm chủ được hành vi của mình.
2. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân
Đối với năng lực hành vi dân sự của mỗi cá nhân đã được pháp luật quy định thì cần hết sức lưu ý những trường hợp sau:
- Cá nhân có năng lực hành vi đầy đủ
Theo quy định của pháp luật dân sự thì cá nhân có năng lực hành vi đầy đủ là vị thành niên phải từ đủ 18 tuổi trở lên, đây là những người đã có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật, có thể nhận thức được hành vi của mình trừ trường hợp bị tuyên bố mất năng lực hành vi hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật. Như vậy theo các quy định của pháp luật thì chỉ có độ tuổi tối thiểu mà không giới hạn độ tuổi tối đa của những người có năng lực pháp luật dân sự đầy đủ. Những người này là người có tư cách chủ thể để tham gia vào những mối quan hệ dân sự để trao đổi, mua bán với tư cách là chủ thể độc lập và mỗi hành vi của họ đều do chính bản thân tự chịu trách nhiệm.
Theo như quy định trên thì những người từ đủ 18 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm pháp lý với các hành vi vi phạm pháp luật do họ gây ra vì họ đã có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Chỉ trong trường hợp có quyết định của toà án về việc hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì chủ thể mới được xem xét giảm nhẹ.
- Cá nhân có năng lực hành vi một phần
Theo quy định của pháp luật quy định thì cá nhân có năng lực hành vi một phần hay còn được gọi là những người chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong phạm vi giới hạn quy định do pháp luật dân sự đưa ra. Theo đó, tại Điều 21 Bộ Luật dân sự 2015 quy định về người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi như sau:
- Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.
- Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
Từ quy định trên của pháp lật có thể thấy các cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi là những người có năng lực hành vi dân sự một phần theo quy định pháp luật. Bằng các hành vi của mình họ có thể đã tạo ra quyền cũng như phải chịu trách nhiệm nghĩa vụ nếu tham gia và các giao dịch để thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của độ tuổi. Tuy pháp luật không quy định cụ thể đâu là giao dịch phục vụ nhu cầu thiết yếu và phù hợp với lứa tuổi nhưng trên thực tế những giao dịch đó có giá trị nhỏ như phục vụ nhu cầu học tập, vui chơi, ăn uống sẽ được người đại diện của họ cho phép thực hiện.
Pháp luật quy định người đại diện của những cá nhân trong phạm vi lứa tuổi này có thể yêu cầu tuyên bố những giao dịch do người chưa thành niên thực hiện mà không có sự đồng ý của họ là vô hiệu, trong trường hợp đó, tòa án sẽ xem xét trong những trường hợp cụ thể để chấp nhận yêu cầu của người đại diện theo quy định tại Điều 130 Bộ Luật dân sự 2015. Nếu những người đại diện không yêu cầu và không có sự phản đối gửi lên toà án thì những giao dịch đó mặc nhiên được coi là có hiệu lực.
- Cá nhân không có năng lực hành vi
Theo quy định của pháp luật thì người chưa đủ 6 tuổi không có năng lực hành vi dân sự vì ở độ tuổi này khi nói về nhận thức hành vi của một đứa trẻ rất khó để xác định. Đối với những người này thì mọi giao dịch của họ đều do người đại diện xác lập và thực hiện và cũng không phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình bởi chưa đủ ý chí cũng như lí trí để hiểu được hành vi và hậu quả từ những hành vi của bản thân.
- Cá nhân mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự
Theo quy định pháp luật những người mất năng lực hành vi dân sự được hiểu là bản thân họ đang tồn tại, đang có một hiện tượng, một sự vật nhưng sau đó không còn hiện tượng, sự vật đó nữa. Năng lực hành vi dân sự của một người là thuộc tính của cá nhân và họ hoàn toàn làm chủ được điều đó khi đến tuổi thành niên. Năng lực hành vi của cá nhân chỉ chấm dứt và cũng chấm dứt cùng năng lực pháp luật cá nhân khi người đó chết hoặc được tòa tuyên bố đã chết. Đối với người thành niên chỉ được tuyên bố mất năng lực hành vi khi có những điều kiện, với những trình tự, thủ tục nhất định và được tòa án xem xét chấp nhận.
Theo điều 22 của Bộ luật Dân sự 2015 quy định trong các trường hợp mất năng lực hành vi dân sự do cá nhân bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được các hành vi của mình thì bị coi là mất năng lực hành vi dân sự. Tòa án chỉ có thể tuyên bố một người mất năng lực hành vi sau khi xem xét kĩ lưỡng kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền chứ không thể phán xét một cách tùy tiện, cảm tính.
Theo quy định của pháp luật, các cá nhân được tuyên bố là mất năng lực hành vi nhưng nay không còn tồn tại nữa thì họ hoặc những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu toà án hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi. Theo quy định khi họ mất năng lực hành vi dân sự thì cũng sẽ mất năng lực hành vi tố tụng nên nếu xảy ra trường hợp phát sinh ngoài ý muốn thì họ không thể tự khởi kiện mà phải thông qua hành vi của người có năng lực hành vi tố tụng dân sự để gửi yêu cầu tới tòa án.
Theo quy định tại điều 24 Bộ luật Dân sự 2015 đối với các trường hợp cá nhân bị hạn chế năng lực hành vi dân sự được hiểu là năng lực hành vi của người đã thành niên có thể bị hạn chế trên cơ sở những điều kiện và thủ tục đã được quy định. Năng lực hành vi của người thành niên bị hạn chế khác với năng lực hành vi một phần của người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi. Năng lực hành vi của người từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi mặc nhiên được công nhận là năng lực hành vi đầy đủ khi đạt độ tuổi nhất định còn việc hạn chế năng lực hành vi phải thông qua toà án theo trình tự tố tụng dân sự và được áp dụng với những người nghiện ma túy và các chất kích thích dẫn đến hậu quả phá tán tài sản của gia đình.
- Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Theo quy định tại Điều 23 Bộ Luật Dân Sự 2015 trường hợp cá nhân khó khăn để nhận thức và làm chủ hành với các đặc điểm có các yếu tố về thể chất mà không đủ khả năng nhận thức và làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự và có yêu cầu của người này, người có quyền và lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan gửi đến tòa án.
Năng lực hành vi của một người là rất quan trọng và pháp luật sẽ dựa vào đó để đưa ra phán quyết trong trường hợp kiện ra tòa. Vì thế, mỗi người cần hết sức cẩn thận với mỗi hành động của mình và đều phải chịu trách nhiệm với những hành vi của mình.