Vua Khang Hy - Từ đứa con bị ghẻ lạnh đến vị hoàng đế vĩ đại của nhà Thanh
Tóm tắt tiểu sử và hành trình lên ngôi của vua Khang Hy
Vua Khang Hy có tên thật là Ái Tân Giác La Huyền Diệp. Ông sinh vào ngày 4/5/1654 và là người con trai thứ ba trong gia tộc. Cha ông là Thanh thế tổ Thuận trị Hoàng đế, còn mẹ ông chính là Hiếu Khang chương Hoàng hậu. Lấy niên hiệu là vua Khang Hy nên ông còn được gọi là Khang Hy đế.
Theo sử sách ghi chép lại thì hoàng đế Khang Hy chính là kết quả của cuộc hôn nhân chính trị, gượng ép và không có tình cảm. Chính vì vậy mà kể từ khi chào đời cho tới khi lên ngôi, hoàng đế Khang Hy luôn bị vua cha ghẻ lạnh. Tuy nhiên, ông lại rất được bà nội của mình là Hiếu Trang Thái hậu yêu quý và hết mực cưng chiều.
Ngay từ khi còn nhỏ, Huyền Diệp (tên của vua Khang Hy) đã tỏ ra là một người có tư chất thông minh và ham học. Thêm việc được dạy dỗ chu đáo và cẩn thận, mới 5 tuổi đã bắt đầu cầm sách vở học tập nên càng được người bà của mình yêu thường và tin tưởng.
Thế nhưng, lúc đó Huyền Diệp đã mắc phải căn bệnh đậu mùa, đây được xem là một loại bệnh không thể chữa được vào thời điểm đó và một khi đã mắc phải căn bệnh này thì khó giữ được tính mạng. Tuy nhiên, bằng một phép màu nào đó, Huyền Diệp đã qua khỏi và thoát khỏi quỷ môn quan. Chính điều đó đã khiến cho người cha thường xuyên tỏ thái độ lạnh nhạt bắt đầu chú ý đến ông nhiều hơn.
Theo trích dẫn trong ghi chép của một nhà hán học là Herbert Giles, có một đoạn được mô tả như sau: “Là một người tương đối cao, có thân hình cân đối, ông rất thích các môn thể dục hay luyện tập của phái nam và dành ra hẳn 3 tháng mỗi năm để săn bắn. Mắt ông to và sáng bừng cả mặt, có thể thấy vài đốm nhỏ di chứng của bệnh đậu mùa”.
Năm 1661, Thuận Trị đế lâm bệnh nặng và phải nằm liệt giường. Đến lúc này, Hiếu Trang Hoàng Thái hậu rất ủng hộ việc đưa Huyền Diệp lên kế vị, chính vì vậy mà Thuận Trị đế đã quyết định lập Huyền Diệp lên làm Hoàng Thái tử. Lý do của quyết định này chính là vì lúc nhỏ Huyền Diệp mắc bệnh đậu mùa và qua khỏi, đây chính là điềm lành của quốc gia, dân tộc. Khi đó, Huyền Diệp mới lên 8.
Ngày 4/2/1661, Thuận Trị đế băng hà. Sau đó một ngày, tức là ngày 5/2/1661, Hoàng Thái tử Huyền Diệp lên ngôi và một năm sau đổi niên hiệu thành Khang Hy, được gọi là Khang Hy đế. Khi đó, do còn quá nhỏ, kinh nghiệm và tài năng còn hạn chế, nên Khang Hy phải cần đến sự trợ giúp của các đại thần, đặc biệt là 4 vị đại thần được Thuận Trị đế bổ nhiệm làm phụ chính. Người đứng đầu là Sách Ni, kế tiếp là Tô Khắc Tát Cáp, Át Tất Long và cuối cùng là Ngao Bái.
Có thể thấy rằng, mặc dù bị người cha ghẻ lạnh và không dành cho quá nhiều tình thương. Thế nhưng, với sự yêu thương và hậu thuẫn từ bà nội, cộng thêm tố chất thông minh của mình thì Huyền Diệp - Khang Hy đế vẫn có thể vươn tới vị trí cao nhất cho dù ở độ tuổi còn rất nhỏ.
Những “chiến tích” mà vua Khang Hy đã tạo ra trong 61 năm
Vua Khang Hy được biết đến là một vị vua có thời gian cai trị lâu nhất trong lịch sử - 61 năm, ông đã có những công lao vô cùng to lớn trong việc thống nhất lãnh thổ Trung Quốc cũng như các chính sách phát triển đất nước được lòng người dân.
Khang Hy đế diệt đại gian thần Ngao Bái
Khi Khang Hy lên ngôi hoàng đế, do tuổi còn nhỏ nên không thể đảm đương được hết công việc triều chính. Chính vì vậy mà các công việc đại sự trong triều đều do một tay các đại thần đảm nhiệm, một trong số đó chính là Ngao Bái - một công thần khai quốc và nắm nhiều thế lực trong tay.
Trong 4 vị đại thần lúc bấy giờ, Ngao Bái là người có công lao lớn nhất, được thưởng nhiều nên thường cậy quyền, tỏ ra khinh thường vị vua nhỏ tuổi này. Sách Ni tuổi cao, lại thêm lắm bệnh nên thường ngại việc triều chính cũng như va chạm, Át Tất Long là người mềm mỏng, ngại xung đột, duy chỉ có Tô Khắc Tát Cáp là người dám đứng ra tranh luận cũng như phản đối lại các ý kiến mà Ngao Bái đưa ra. Do đó, Tô Khắc Tát Cáp đã trở thành cái gai trong mắt Ngao Bái.
Tuy nhiên, mâu thuẫn đỉnh điểm giữa hai vị đại thần này chính là sự kiện Ngao Bái giết chết Chu Xương Tô (Tổng đốc Trực Khang - Sơn Đông) và Vương Đăng Liên (tuần phủ) vào năm 1666. Trên thực tế, ai cũng thấy rằng đây là một cuộc đối đầu không cân sức khi Tô Khắc Tát Cáp chỉ có một mình một phe, ông không chỉ đối đầu với Ngao Bái mà còn xảy ra mâu thuẫn với đại thần Sách Ni. Chính vì thế mà ông bị cô lập, cộng thêm không có kinh nghiệm nên đã bị Ngao Bái vu oan và ép Khang Hy ban lệnh xử tử.
Chẳng bao lâu sau, 3 vị đại thần đều qua đời, lúc này chỉ còn lại Ngao Bái. Vì thế mà hắn lại càng tỏ ra chuyên quyền và không coi ai ra gì. Đặc biệt, việc duy trì chế độ chỉ có người Mãn được làm quan còn người Hán thì cần phải hạn chế. Những điều này khiến cho vua Khang Hy đế rất không hài lòng.
Chính những việc mà Ngao Bái làm khiến cho Khang Hy ngày càng muốn diệt trừ đại gian thần, ngay khi 14 tuổi, tức là năm 1667, vua Khang Hy bắt đầu lên kế hoạch. Khang Hy bắt đầu tự mình đứng ra xem xét các công việc triều chính, nhận thấy mình chưa đủ mạnh, trong khi đó thế lực của Ngao Bái đông nên vẫn tỏ ra bình thường để không “đánh rắn động cỏ”.
Tỏ ý khinh thường nhà vua, Ngao Bái thường cáo bệnh và không vào triều. Vua Khang Hy rất nhiều lần đến tận nhà thăm hỏi và trong một lần đến thăm Ngao Bái đã phát hiện ra hắn không hề bị ốm, thị vệ Hòa Thác đi theo Khang Hy đến bên giường Ngao Bái thì phát hiện ra có một con dao. Tuy nhiên, vua Khang Hy cũng không tỏ thái độ gì nhiều, điều này khiến cho Ngao Bái càng chủ quan.
Trong thời điểm này, Khang Hy đã bắt đầu hành động và vạch ra kế hoạch diệt trừ Ngao Bái. Viện cớ thích đánh cờ, ông thường cho gọi Sách Ngạch Đồ (con của đại thần Sách Ni) vào cung, bề ngoài thì đánh cờ nhưng trên thực tế là để bàn kế vây bắt Ngao Bái. Lấy cớ thích học võ nghệ để có thể tuyển chọn được nhiều con em của các thân vương thân tín làm thị vệ cho Ngao Bái, đồng thời cũng viện cớ để điều những phe cánh của đại gian thần này đi xa. Để tránh Ngao Bái nghi ngờ, vua Khang Hy đã phong Ngao Bái làm Nhất Đẳng Công. Điều này càng khiến cho Ngao Bái lơ là cảnh giác.
Đến năm 1669, nhân lúc Ngao Bái vào cung yết kiến, vua Khang Hy đã cho thị vệ vây bắt hắn. Đưa ra các tội ác cũng như vạch trần bộ mặt thật của Ngao Bái. Nể tình hắn đã cứu Thanh Thái tông Hoàng Thái cực nên vua Khang Hy chỉ cắt chức và giam hắn vào ngục, đồng thời cho bắt tất cả những phe cánh của Ngao Bái.
Sau đó không lâu thì Ngao Bái chết ở trong ngục. Vua Khang Hy đã đoạt lại quyền lực về tay, trực tiếp điều hành các công việc trong triều chính. Khi đó, ông mới chỉ 16 tuổi.
Hoàn thành sứ mệnh thống nhất lãnh thổ Trung Quốc
Dẹp loạn tam phiên, thống nhất toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc là một trong những công lao to lớn của vua Khang Hy.
Với việc diệt trừ được gian thần Ngao Bái, vua Khang Hy đã khiến cho các đại thần đều nể phục và tin tưởng vào tài năng của vị đế vương trong tương lai này.
Mặc dù việc triều chính nội bộ đã ổn nhưng bên ngoài vẫn đang rơi vào cảnh loạn lạc khi lãnh thổ Trung Quốc lúc bấy giờ vẫn còn đang bị chia cắt bởi tam phiên. Đây chính là việc tồn đọng lại từ thời nhà Minh. Bên cạnh đó là các cuộc tấn công ở biên giới do Sa Hoàng là vua Nga gây ra.
Bằng tài năng và bản lĩnh của mình, đến năm 1681, vua Khang Hy đã hoàn toàn dẹp được loạn tam phiên. Sau đó, ông tiếp tục chiếm được đảo Đài Loan và biến nơi này thành một đơn vị hành chính của Trung Quốc.
Những công lao to lớn của vua Khang Hy đã giúp thống nhất và mở rộng lãnh thổ Trung Hoa. Đặc biệt là việc thống nhất Mãn - Hán khi nội bộ hai dân tộc này luôn có sự xung đột với nhau. Theo sử sách, thời kỳ mà vua Khang Hy cai trị được xem là thời kỳ đỉnh cao của Trung Quốc khi lãnh thổ được mở rộng một cách tối đa và đất nước được quản lý hiệu quả.
Chính sách cai quản đất nước hợp lòng dân
Nổi tiếng là vị vua anh minh, có tài dụng người và thương dân như con, trong thời gian cai trị của mình vua Khang Hy đã luôn chủ trương thực hiện chính sách “lấy dân làm gốc và coi trọng hiền tài”.
Là một vị vua, ông biết được việc phát triển kinh tế, sản xuất là điều cần thiết để phát triển quốc gia. Chính vì vậy mà các chính sách khuyến nông, không tăng thêm thuế và sinh thêm nhân khẩu đã được nhà vua ban hành và rất được nhân dân ủng hộ. Vua Khang Hy cũng đã tự mình thực hiện việc trị thủy ở sông Hoàng Hà trong suốt 10 năm liền nhằm giúp nhân dân đỡ khổ khi gặp lũ lụt.
Các hình phạt cũng được vua Khang Hy giảm bớt nhằm giúp những người “sa cơ lỡ bước” có thể hối cải làm lại cuộc đời. Theo ghi chép, năm thứ 22 vua Khang Hy trị vì, số phạm nhân nhận án tử hình của cả nước chỉ đến chưa đầy 40 người. Đây là con số ít nhất trong lịch sử các triều đại của Trung Quốc.
Không chỉ bản thân thương dân và lo cho dân, vua Khang Hy cũng yêu cầu các quan lại, đại thần cũng phải quan tâm tới những người dân của mình. Trong việc dùng người, vua Khang Hy cũng có những tiêu chuẩn của riêng. Với vị minh quân này, người được xem là hiền tài phải là người có đức. “Quốc gia dùng người, lấy đức làm gốc, tài nghệ là thứ yếu”. Người có tài mà không có đức cũng chỉ là kẻ tiểu nhân mà thôi.
Những chính sách cai trị của vua Khang Hy được xem là hợp tình hợp lý. Đủ nghiêm nghị để mang tính răn đe nhưng cũng cần phải “mềm mỏng” để khiến người khác tâm phục khẩu phục. Ông luôn tuyên dương và coi trọng những vị quan thanh liêm, cùng với đó chính là việc trị tội thật nặng các tham quan vô lại.
Từ việc thống nhất toàn vẹn lãnh thổ cho đến việc trị quốc, bình thiên hạ, vua Khang Hy luôn được xem là một tấm gương sáng trong lịch sử các triều đại Trung Quốc.
Tổng kết
Trên đây chính là tóm tắt tiểu sử của vua Khang Hy cũng như chặng đường và hành trình của ông từ nhỏ đến lúc lên ngôi. Hy vọng bài viết này giúp các bạn hiểu rõ hơn về vị minh quân tài năng, vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc.