Là nước sản xuất xăng dầu lớn nhất thế giới, tại sao Mỹ vẫn chưa tự chủ được giá nhiên liệu?
BÀI LIÊN QUAN
Lỗ lớn mảng kinh doanh xăng dầu, Petrolimex bất ngờ đạt doanh thu 3 tỷ USD quý IIIGiá xăng dầu tăng cao, đẩy CPI bình quân 10 tháng tăng 2,89%Doanh nghiệp xăng dầu vẫn gặp khó vì nguồn cung nhỏ giọt và chiết khấu vẫn thấpNhớ lại thời điểm tháng 12 năm ngoái, có đến hơn 30 chiếc tàu chở khí đốt hóa lỏng từ Mỹ vốn trên đường đến Nhật Bản, Brazil và Nam Phi… đã bất ngờ chuyển hướng đến châu Âu. Thời điểm những con tàu này đến nơi, Mỹ đã cung ứng được rất nhiều khí đốt cho châu Âu còn hơn cả Nga. Tuy nhiên, câu chuyện này chỉ là một phần nổi của tảng băng chìm, bởi vào giữa thập niên 2000, nhiều hãng năng lượng đã tỏ ra lo lắng về nền kinh tế hàng đầu thế giới sẽ chẳng đủ năng lượng cho hoạt động sản xuất. Tuy nhiên, với sự phát triển của công nghệ khai thác đá phiến (Fracking), kể từ năm 2006 Mỹ đã tăng khai thác lên gấp đôi sản lượng, nhanh chóng sản xuất gần đủ nhiên liệu phục vụ cho việc tiêu thụ trong nước và cả xuất khẩu.
Trước bối cảnh này, tháng 3 năm nay CEO Mike Sommers của Viện dầu mỏ Mỹ (API) đã vô cùng tự hào tuyên bố, Mỹ sẽ hậu thuẫn năng lượng cho EU giống như những điều họ đã thực hiện trong Thế chiến II. Tuy nhiên, thực tế lại cho ra một viễn cảnh hoàn toàn khác. Giờ đây, nền kinh tế số 1 thế giới vẫn phải nhập khẩu thêm xăng dầu, không đủ để chi phối thị trường năng lượng này. Cuộc khủng hoảng năng lượng vừa qua cho thấy, nhiều khi giá xăng tại Mỹ lên mức giá cao kỷ lục buộc nước này phải mở kho dự trữ xăng dầu và hối thúc Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) tăng cường sản lượng.
Điều đáng nói, báo cáo của Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ (EIA) cho thấy, mỗi ngày Mỹ sản xuất đến 18,88 triệu thùng dầu, cao hơn 10,84 triệu thùng/ngày so với nước thứ 2 là Ả Rập Xê Út và nhiều hơn 10,78 triệu thùng/ngày so với nước thứ ba là Nga. Thời điểm hiện tại, Mỹ cũng là quốc gia tiêu thụ dầu lớn nhất thế giới với hơn 20,54 triệu thùng/ngày, con số này tương đương với 20% tổng lượng xăng dầu trên toàn cầu. Trong năm ngoái, Mỹ đã nhập khẩu khoảng 7,86 triệu thùng dầu mỗi ngày.
Chỉ là “tự chủ trên giấy”
Từ gần 50 năm trước, tầm nhìn năng lượng của Mỹ đã bắt đầu trước khi Tổng thống thời đó là ông Richard Nixon đã tuyên bố về dự án “Tự chủ năng lượng” (Project Independence) nhằm đưa nước Mỹ thoát khỏi sự ràng buộc đối với xăng dầu nhập khẩu. Dù thất bại nhưng tư tưởng của dự án này vẫn được lưu truyền sang đời sau. Hầu như mọi đời Tổng thống Mỹ đều mong muốn nước mình có thể độc lập tự chủ về năng lượng. Thực tế, nếu như Mỹ tự chủ được về nhiên liệu sẽ tránh được nhiều cuộc chiến tranh và khủng hoảng; chính quyền nước này cũng không tốn kém tiền bạc đưa quân đến các “vùng nóng” như Trung Đông.
Năm 2018, Mỹ đã trở thành nước sản xuất xăng dầu và khí đốt lớn nhất trên thế giới. Xét về lý thuyết, nền kinh tế này cũng đã có thể tự thủ về mặt nhiên liệu. Trong hội thảo thường niên về năng lượng CERAWeek, CEO John Hess của hãng Hess đã phát biểu: “Chúng ta là nước tự chủ được về mặt năng lượng”. Tuy nhiên, thông tin từ tờ The Atlantic cho rằng, sự tự chủ này khá nực cười, bởi Mỹ không hề có khả năng khống chế thị trường năng lượng giống như Nga hay Ả Rập Xê Út. Một khi khủng hoảng năng lượng xảy ra, các nước Trung Đông cùng nhiều cường quốc xăng dầu khác sẽ dễ dàng khống chế được thị trường nhờ kiểm soát được nguồn cung, đảm bảo bình ổn giá xăng dầu trong nước.
Tuy nhiên, Mỹ lại không đi theo con đường quốc hữu hóa nhà máy xăng dầu, cũng không tuyên bố sở hữu hay quốc hữu hóa bất kỳ mỏ xăng dầu nào trên vùng đất tư nhân. Bên cạnh đó, Mỹ cũng không có bất kỳ công cụ điều tiết nào đối với việc tăng giảm sản lượng theo ý muốn của Tổng thống. Như vậy, sự “tự chủ” iwr đây ý chỉ khả năng gia tăng sản lượng dầu của Mỹ, không liên quan đến khả năng chống chọi với những cuộc khủng hoảng năng lượng. Chưa kể, lượng dầu sản xuất ra là thuộc quyền sở hữu của các công ty, nhiều khi lợi ích của các cổ đông sẽ không tương đương với lợi ích của người dân và chính phủ.
Kể từ khi Mỹ dỡ bỏ chính sách hạn chế xuất khẩu năm 2015, giá xăng dầu của Mỹ tiếp tục liên kết với giá thị trường quốc tế hơn trước, đồng thời có được sự tự chủ về năng lượng của Mỹ cũng càng giảm xuống. Các công ty cần phải tuân thủ theo giá thị trường quốc tế. Ví dụ như, nếu như giá bán dầu thô trong nước là 70 USD/thùng nhưng giá chuẩn quốc tế lại là 120 USD/thùng, các hãng khai thác cũng thà xuất khẩu để kiếm lời chứ chắc chắn là không bán trong nội địa. Nếu như giá quốc tế thấp hơn, các hãng phân phối thà nhập khẩu dầu rẻ chứ không mua từ các nhà khai thác ở trong nước. Đây chính là sự cân bằng giúp giá xăng dầu tại Mỹ sẽ được điều chỉnh theo như thị trường chung chuẩn quốc tế.
Nhờ lý do này, bất chấp giá xăng trong nước lên cao trong thời điểm mùa hè, thế nhưng các hãng xăng dầu của Mỹ lại chỉ muốn xuất khẩu, bán ra nước ngoài bởi nó mang lại nhiều lợi nhuận hơn. Thậm chí, chính quyền Washington đã phải tạo áp lực để buộc các hãng xăng dầu phải hạn chế xuất khẩu và mở kho dự trữ chiến lược để có thể hạ nhiệt thị trường.
Nhiều doanh nghiệp bị “sang chấn tâm lý”
Mất tự chủ là một chuyện, nhưng điều đáng ngạc nhiên hơn đó là, Mỹ lại không hề tăng sản lượng khai thác. Theo số liệu từ tờ New York Times (NYT), tổng sản lượng khai thác dầu của Mỹ tính đến tháng 4 năm nay mới chỉ đạt 11,8 triệu thùng một ngày, so với tháng 12 năm ngoái đã thấp hơn 2%, đồng thời thấp hơn mức đỉnh 13,1 triệu thùng/ngày của tháng 3/2020. Theo ước tính của Chính phủ Mỹ, sản lượng năm 2022 sẽ chỉ rơi vào khoảng 12 triệu thùng/ngày, đến năm 2023 sẽ là 12 triệu thùng/ngày. Con số này cũng thấp hơn đáng kể so với con số gần 4 triệu thùng/ngày so với lượng xăng dầu EU nhập khẩu từ Nga.
The Atlantic cho biết, các doanh nghiệp khai thác dầu của Mỹ đang bị sang chấn tâm lý, bởi mỗi lần nhà đầu tư đổ tiền để họ phát triển dầu đá phiến là giá dầu lại lao dốc. Trong 14 năm qua, tổng cộng có 3 lần giá dầu giảm mạnh trong khi dầu đá phiến Mỹ cũng trỗi dậy và khiến cho vô số công ty bị phá sản. Hậu quả, các nhà đầu tư, ngân hàng và cả các công ty khai thác đều sợ hãi việc tăng sản lượng dù nhu cầu xăng trong nước vẫn còn nhiều.
Tờ NYT cũng cho biết, hiện tại nhiều nhà đầu tư phố Wall không muốn các hãng khai thác nâng sản lượng, bởi họ không chắc chắn có thể chờ đợi đến khi lợi nhuận được sinh ra hay không. Chưa kể, việc xây dựng các giàn khoan khai thác dầu đá phiến mới sẽ mất 6-8 tháng mới có thể cho gia những giọt dầu đầu tiên. Đến khi đó, giá xăng tăng hay giảm vẫn còn là một ẩn số.
Một khảo sát về 141 công ty xăng dầu của Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) chi nhánh Dallas cho thấy, một trong số những nguyên nhân chính khiến họ không nâng sản lượng dù giá xăng trong nước tăng cao là do cổ đông không muốn phá hủy tình trạng giá dầu như thời điểm hiện tại. Ngoài ra, các công ty khai thác dầu đá phiến Mỹ cần giá dầu quốc tế giữ ở mức 56 USD/thùng thì mới có thể hòa vốn.
Cụ thể, Chủ tịch Ben Shepperd của Liên đoàn dầu khí PBPA tại Texas cho biết: “Nếu các cổ đông được thuyết phục về việc giá dầu sẽ lên 75 USD/thùng hoặc cao hơn và giữ ổn định trong 3 năm tới, bạn sẽ thấy lượng tiền khổng lồ đổ dồn về các mỏ khai thác ngay lập tức”. Số liệu của Rystad Energy năm 2020 cho thấy, chi phí khai thác dầu của Trung Đông là 31 USD/thùng và thuộc hàng thấp nhất thế giới. Vì thế, không có gì là khó hiểu khi Pioneer Natural Resources - hãng sản xuất dầu lớn ở Texas đã hạ mức tăng sản lượng từ 20% của năm 2021 xuống chỉ còn 5%. CEO Scott Sheffield của hãng cũng cho biết, họ sẽ hoàn lại 80% lợi nhuận cho cổ đông thay vì đầu tư như trước đây.
Độ ngọt của dầu
Ngoài việc bị sang chấn tâm lý, nhiều công ty khai thác cũng cho biết, việc lạm phát ngày càng gia tăng khiến họ càng thêm tốn kém với việc đầu tư, mở rộng cũng như xây dựng các mỏ mới. Theo hãng RBN Energy, chi phí thăm dò cũng như khai thác tại Mỹ năm 2022 đã tăng hơn 20%, trong đó có đến khoảng 2/3 là do giá nhân công và nguyên vật liệu tăng cao. Ngoài ra, các nhà phân phối và hóa lọc dầu Mỹ thường ưa chuộng nhiên liệu nhập khẩu hơn hàng nội địa do giá cả, vốn biến động và cả chất lượng dầu.
Thực tế, dầu thô thường sẽ được phân loại theo độ nặng (Weight), độ ngọt (Sweetness). Độ nặng của dầu thô ám chỉ mức độ khó khăn để có thể lọc dầu sang những sản phẩm hữu dụng khác như xăng hay dầu diesel. Theo đó, dầu càng nhẹ, khả năng lọc dầu càng dễ. Còn độ ngọt của dầu liên quan tới hàm lượng lưu huỳnh và ảnh hưởng đến độ thích ứng của các nhà máy lọc dầu.
Hầu hết sản lượng dầu thô được khai thác tại các mỏ Texas hay Oklahoma của Mỹ là dầu thô ngọt nhẹ. Loại dầu này khác với loại nặng ít ngọt của dầu thô từ Trung Đông và Nga. Tuy nhiên, từ lâu ngành lọc dầu Mỹ đã thích ứng với dầu nhập khẩu trước cả sự bùng nổ của công nghệ khai thác dầu đá phiến. Chính vì thế, giờ đây dầu ngoại lại được chuộng hơn khi so với dầu nội. Chưa kể, câu chuyện về xe điện cùng với sự chuyển đổi xanh cũng khiến các nhà đầu tư Mỹ không nhìn thấy được tương lai của ngành dầu và từ chối tăng sản lượng.