Chân dung vị tiến sĩ gốc Việt giúp máy ATM "thay da đổi thịt" và tạo nên cuộc cách mạng toàn cầu
BÀI LIÊN QUAN
Chân dung doanh nhân Hương Giang - CEO của CIEL de GIA: Kẻ "ngoại đạo" cứng đầu cùng đam mê cháy bỏngChân dung ái nữ New Hope Group: Dùng họ mẹ để che giấu thân phận suốt 10 năm, trở thành tỷ phú khi mới 26 tuổiChân dung những đại gia nổi tiếng "siêu tiết kiệm": Dù giàu có nhưng không phải ai cũng sẵn lòng hưởng thụ đời sống vật chất xa hoa!Chiếc máy nhỏ bé tạo nên cuộc cách mạng toàn cầu
Nói về chiếc máy ATM thần kỳ thời điểm mới ra đời, người ta thường chia sẻ về chiếc máy rút tiền này rằng: "Chỉ một cái khe trên tường nhưng đủ sức làm thay đổi cả thế giới". Ngày nay, ATM là thiết bị vô cùng quen thuộc với hầu hết mọi người, thế nhưng khoảng những năm 1960, đây là một điều vô cùng kỳ diệu mà không phải ai cũng có thể ngờ tới.
Nhớ lại thời điểm đó, nếu như mọi người muốn rút tiền mặt, họ sẽ phải ra tận ngân hàng trong giờ hành chính, sau đó chờ đợi và phải trải qua rất nhiều thủ tục phức tại. Vì thế, tất cả các ngân hàng đều lo lắng và đau đầu để có thể tìm ra giải pháp giải quyết vấn đề này. Những nhóm tác giả hoạt động độc lập đã đưa ra hàng loạt các ý tưởng lẫn phiên bản. Năm 1939, một sản phẩm được phát triển bởi tác giả người Mỹ tên Luther George Simjian đã được lắp tại ngân hàng Citibank (New York). Thế nhưng, sản phẩm này vì không thành công nên cũng nhanh chóng bị tháo dỡ không lâu sau đó.
Tiếp đến, ông John Shepherd-Barron phát minh chiếc máy rút tiền tự động (còn gọi là chiếc máy ATM) đã được mọi người công nhận rộng rãi là chiếc máy ATM đầu tiên trên thế giới. Chiếc máy này cũng nhanh chóng được lắp đặt và có người sử dụng.
Trong thời kỳ đầu, hệ thống của máy ATM vẫn còn tồn tại rất nhiều lỗi. Chưa kể, đối với những người chưa từng có cơ hội tiếp xúc với những thiết bị điện tử tiên tiến như thế sẽ dễ dàng nảy sinh tâm lý e ngại. Ban đầu, những chiếc máy này còn rất cồng kềnh, nặng nề, khi di chuyển càng thêm nguy hiểm và không đáng tin cậy. Vì thế, chúng hiếm khi được đặt ở những vị trí thuận tiện.
Không giống như những máy ATM tiên tiến và gọn nhẹ ngày nay, những chiếc máy ATM từ thuở sơ khai chỉ có thể làm duy nhất một việc đơn giản. Đó là phân phối một lượng tiền mặt cố định sau khi đã được kích hoạt bằng mã thông báo giấy hoặc là thẻ nhựa. Những chiếc thẻ này sẽ được phát hành cho những khách hàng tại các chi nhánh bán lẻ trong thời gian làm việc hành chính.
Khi được sử dụng, máy sẽ tiến hành lưu trữ các máy thông báo này. Sau đó, nhân viên chi nhánh sẽ lấy những mã này, ghi nợ vào những tài khoản thích hợp. Tiếp đến, thẻ nhựa sẽ được chuyển lại cho các khách hàng thông qua đường bưu điện. Dù quá trình cồng kềnh và rắc rối là thế, không phải khách hàng nào cũng được cung cấp dịch vụ này. Chỉ có những người sở hữu "tín dụng tốt" thì mới được phục vụ. Tuy nhiên, quá trình này vẫn được mọi người đánh giá là tiện lợi hơn rất nhiều khi so sánh với việc phải đến tận ngân hàng để xử lý vấn đề rút tiền của mình.
Kể từ đó trở đi, máy ATM đã tạo nên một cột mốc mới trong quá trình tiêu dùng của người dân. Việc rút tiền dễ dàng, nhanh gọn và tiết kiệm thời gian hơn cũng thúc đẩy cảm hứng mua hàng.
Mọi người có xu hướng chi tiêu nhiều hơn vào những buổi tối, vào những ngày cuối tuần để thỏa mãn nhu cầu giải trí của mình. Dần dần, các công ty và các ngân hàng đã tốn rất nhiều công sức để có thể tích hợp được các tiêu chuẩn, tối ưu quá trình và từng bước hiện thực hóa khả năng tiếp cận tiền mặt 24/7. Cũng từ đây, hệ thống ATM cũng bùng nổ và phát triển rộng khắp ở nhiều nơi trên thế giới. Trong những năm 1970, trên thế giới chỉ có khoảng gần 1.500 máy ATM trong đó chủ yếu tập trung tại châu Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản. Thế nhưng chỉ sau đó 10 năm, con số máy ATM đã lên tới 40.000 máy và 1 triệu máy vào năm 2000.
Vị tiến sĩ gốc Việt giúp máy ATM "thay da đổi thịt"
Đáng chú ý, trong quá trình phát triển này đã có rất nhiều cái tên góp phần vào công cuộc ra đời cũng như đổi mới chiếc máy ATM thần kỳ. Đồng thời, hàng loạt bằng sáng chế được ghi nhận cũng giúp cho thiết kế của chiếc máy này ngày càng tiên tiến và tinh vi hơn, đáp ứng được mọi nhu cầu của người dùng.
Trong đó, năm 1997 Văn phòng Bằng sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ đã cấp bằng sáng chế số D386883 chính là thành quả của vị tiến sĩ gốc việt Đỗ Đức Cường cùng với 3 tác giả khác. Đây cũng chính là những "công thần" đã giúp cải tiến thiết kế của chiếc máy ATM.
Tiến sĩ Đỗ Đức Cường sinh ra và lớn lên tại vùng quê Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Chính khoảng thời gian khốn khó của thời thơ ấu đã thôi thúc ông học tập chăm chỉ, nỗ lực hết mình để có thể vượt qua số phận. Nhờ những nỗ lực không ngừng nghỉ, khi trưởng thành ông đã xuất sắc đỗ vào trường Đại học Y khoa. Sau đó, ông chuyển sang học ngành Kỹ cơ khí tại Đại học Phú Thọ (hay Đại học tổng hợp) tại TP.HCM.
Năm 1963, một phái đoàn của Nhật đã mở ra một cuộc kiểm tra để nghiên cứu về trí thông minh của người Việt Nam. Trong kỳ này, ông Đỗ Đức Cường đã xuất sắc trở thành người có chỉ số thông minh cao nhất. Chính cơ may bất ngờ này đã giúp ông nhận được học bổng sang Nhật và theo học tại Đại học Osaka. Trong những năm tháng du học ở Nhật Bản, ông Cường tranh thủ thời gian để làm thêm tại công ty Toshiba nhằm tích lũy, trau dồi kinh nghiệm và có thêm thu nhập.
Đồng thời, người đàn ông này cũng vẫn tiếp tục con đường học vấn của mình. Ông quyết tâm sang Mỹ để tiếp tục học về ngành ngân hàng. Cũng kể từ đây, vị tiến sĩ gốc Việt chuyển sang sinh sống và làm việc tại Mỹ cùng với một số quốc gia khác với tư cách là một chuyên viên cao cấp ngành ngân hàng. Người đàn ông này đã có ít nhất 58 phát minh cùng với bằng sáng chế liên quan tới lĩnh vực ngân hàng cùng với thiết bị viễn thông.
Năm 1997, ông Đỗ Đức Cường đã được đích thân Tổng giám đốc Citibank thời điểm đó là Walter Briston mời về tập đoàn nổi tiếng này làm việc. Khi ấy, ông Đỗ Đức Cường đưa ra 20 câu hỏi buộc ông chủ Citibank phải thừa nhận 20 cái sai của ngân hàng, đồng thời từ chối lời mời làm việc. Tuy nhiên, chính sự nhiệt tình, thẳng thắn và lời cam kết sẽ ủng hộ ông “lội ngược dòng” đến từ vị Tổng giám đốc đã thuyết phục ông gia nhập ngân hàng. Để hoàn thành chiến lược đẩy mạnh mở rộng hoạt động tại đây, ông Cường cùng với đội ngũ kỹ sư của mình liên tục mày mò, tìm kiếm mọi phương pháp để có thể phát triển ra một công cụ mới. Trong đó, có đến 20 năm công tác của người đàn ông này tại Citibank là gắn liền những cải tiến trên chiếc máy ATM.
Người đàn ông này từng chia sẻ: “Khoảng thời gian làm việc với Citibank đã giúp tôi nhận ra một điều rằng: Nếu ngân hàng không nhìn nhận những người dân bình thường như những khách hàng tiềm năng, họ sẽ không thể nào phát triển được. Thông qua việc quần chúng hoá các dịch vụ, ngân hàng sẽ thành công”.
Năm 2006, tiến sĩ Đỗ Đức Cường đã được trao tặng danh hiệu Vinh danh nước Việt. Đồng thời, ông còn được biết đến như một chuyên viên đa tài, thông thạo nhiều lĩnh vực như y học, kỹ thuật, kinh tế, tài chính.