Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi): Minh bạch thông tin, chống thao túng ngân hàng
BÀI LIÊN QUAN
Tín dụng bất động sản cần được cấp đúng và trúng đối tượngNhiều yếu tố kỳ vọng với nhóm cổ phiếu ngân hàngNgân hàng Nhà nước tiếp tục điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụngMinh bạch thông tin cổ đông
Xử lý tình trạng sở hữu chéo và thao túng ngân hàng là một trong những nội dung thu hút sự quan tâm đặc biệt tại Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua. Luật cũng yêu cầu các cổ đông sở hữu từ 1% vốn trở lên phải công bố thông tin.
Tại Tọa đàm "Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi: Phân bổ hiệu quả nguồn lực" ngày 3/2, theo Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, khi người ta đã chiếm một tỷ lệ sở hữu lớn thì đương nhiên tỷ lệ bầu, can thiệp, ảnh hưởng sẽ lớn, sau đó mới đến tỷ lệ cho vay và các yếu tố quản trị, điều hành khác.
Ông Đức đánh giá, ở Việt Nam, trước nay so với thế giới, các tỷ lệ là chặt. Nhưng trong thực tế thì đã xảy ra rất nhiều bài học, nhiều vụ án, nên buộc lòng phải siết chặt thêm tất cả các khâu. Ví dụ, tỷ lệ một người sở hữu vẫn 5%, không thay đổi, nhưng nhóm cá nhân, gia đình, pháp nhân, doanh nghiệp… thì phải giảm.
“Ngoài ra, chúng ta cần kiểm soát chặt nguồn tiền. Nếu vốn của họ thì một nhẽ, những thực tế là “mỡ nó rán nó”, mượn tạm bợ nguồn vốn ở đâu đó. Luật mới cũng quy định sở hữu 1% là phải công bố thông tin minh bạch, điều này cũng sẽ giúp mọi thứ phát triển theo chiều hướng tốt hơn”, ông Đức nói.
Có chung quan điểm, ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cũng cho rằng, việc công bố thông tin là rất cần thiết. Thực tế, trong hoạt động của nhiều tổ chức tín dụng, có những cổ đông không thấy xuất hiện trong danh sách cổ đông, nhưng người khác đại diện cho họ tới 80-90% cổ phần, vì không công bố thông tin minh bạch. Theo đó, việc yêu cầu các cổ đông sở hữu từ 1% vốn trở lên phải công bố thông tin minh bạch là cần thiết.
“Cổ đông phải thực tế, có thực lực, vốn anh bỏ vào có thể lên tới 5%. Tuy nhiên, anh chiếm giữ 1% thì phải công bố các thông tin như nhân thân, tình trạng tài chính… để làm sao cho mọi người biết được đây là vốn thật, chứ không phải anh đứng tên hộ cho người khác. Điều này nhằm hạn chế chi phối hoạt động của các tổ chức tín dụng”, ông Hùng nói.
Để chống thao túng, ông Hùng cho rằng, cần nâng cao vai trò của hội đồng quản trị và ban kiểm soát, tăng thành viên hội đồng quản trị độc lập. Còn cơ quan thanh tra, giám sát sẽ vào cuộc kịp thời khi tổ chức tín dụng có dấu hiệu bất thường.
Còn theo luật sư Trương Thanh Đức, vấn đề giám sát, thực thi luật là vướng nhất. “Nếu như tôi có thẩm quyền quyết định, tôi còn đặt ra những chính sách đặc thù với ngân hàng khác biệt với các lĩnh vực khác. Ví dụ, thay vì công bố thông tin dư nợ lớn 10-20% thì cần công bố tất cả danh sách vay vốn”, ông Đức nêu.
Giảm giới hạn cho vay đối với một hoặc một nhóm khách hàng
Nhằm ngăn chặn tình trạng thao túng ngân hàng, Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) đã bổ sung quy định giảm giới hạn cho vay đối với một khách hàng và nhóm khách hàng liên quan.
Cụ thể, Điều 136 quy định giảm tỷ lệ giới hạn tín dụng đối với một khách hàng từ 15% xuống còn 10% vốn tự có của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô theo lộ trình tới năm 2029. Giảm tỷ lệ giới hạn tín dụng một khách hàng từ 25% về mức 15% vốn tự có của tổ chức phi ngân hàng theo lộ trình tới năm 2029.
Ông Nguyễn Quốc Hùng đánh giá, quy định này nếu giảm ngay thì ảnh hưởng rất nhiều, nhưng thực hiện theo lộ trình 5 năm giảm từ 15% xuống 10%, tức mỗi năm giảm 1% là cần thiết. Trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, cần hạn chế việc tập trung tín dụng vào một nhóm khách hàng, đảm bảo an toàn. Điều này cũng giúp đẩy mạnh phát triển thị trường vốn.
Ngoài ra, theo ông Hùng, các tổ chức tín dụng cũng nên đồng thuận mở cam kết đồng tài trợ, không nên tập trung một nhóm khách hàng ở một tổ chức tín dụng. Nếu làm dự án lớn thì nên khuyến khích cho vay đồng tài trợ để cùng kiểm tra, kiểm soát, tiến tới minh bạch.
“Doanh nghiệp cũng phải quen với điều này, không thể cứ dựa vào một tổ chức tín dụng. Mặt khác, các doanh nghiệp tốt cũng vậy, ngân hàng cứ muốn chiếm giữ doanh nghiệp tốt làm của riêng của mình, nhưng nên chia sẻ để các ngân hàng đồng tài trợ. Khi đó, dự án cần bao nhiêu vốn cũng được, miễn hiệu quả thì các ngân hàng sẽ thu xếp vốn”, ông Hùng nói.
Như vậy, ông Hùng cho rằng lộ trình thực hiện quy định này là rất nhân văn, phù hợp. Điều này cũng góp phần giúp đẩy mạnh phát triển thị trường vốn một cách ổn định, để doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường vốn, thay vì trông chờ vào tín dụng.
“Vốn ngân hàng chỉ là bổ sung chứ không phải đầu tư trung và dài hạn, bởi ngân hàng huy động vốn phần lớn là ngắn hạn, không đủ nguồn lực để cho vay trung vài dài hạn. Việc đặt nhu cầu vốn vào các tổ chức tín dụng là không hợp lý, do đó cần mở rộng việc huy động từ thị trường vốn”, ông Hùng nói.
Còn theo luật sư Trương Thanh Đức, dù có lộ trình nhưng một số ngân hàng sẽ chịu tác động ở việc này.
Ông Đức cho rằng, quy định lẽ ra còn phải chặt hơn nữa. câu không bỏ trứng vào một giỏ rất đúng với ngành ngân hàng. Anh cho vay 10% với một kháh hàng hoặc một nhóm khách hàng thôi thì nếu họ sụp đổ thì rủi ro với ngân hàng là rất lớn.
“Tôi rất tiếc chúng ta đã bỏ đi quy định pháp lệnh ngân hàng ngày trước, đó là 10 khách hàng lớn nhất không quá 50-60% tổng dư nợ chẳng hạn. Một lúc nào đó có lẽ chúng ta nên khôi phục lại quy định này. Với giới hạn hiện nay, nếu người ta cho 5-6 khách hàng với mức tối đa, chẳng may vài khách hàng gặp vấn đề gì đó thì có thể sụp đổ ngân hàng. Nếu một ngân hàng sụp đổ thì hệ quả rất lớn”, ông Đức nói và cũng ủng hộ hình thức đồng tài trợ để đỡ rủi ro và việc kiểm soát được tốt hơn.
Cũng theo ông Đức, nhiều doanh nghiệp bất động sản lo ngại không đủ vốn đầu tư là không đúng. “Không nên có tư duy tăng nguồn vốn từ ngân hàng, mà phải giảm, còn nguồn vốn thì cần huy động từ nguồn khác”, ông Đức nói.